Ý kiến thăm dò

Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
388426

Tình hình kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng đầu năm 2019 Tỉnh Thanh Hóa

Đăng lúc: 02/10/2019 (GMT+7)
100%

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

1.1. Nông nghiệp

a) Sản xuất vụ thu mùa: Vụ thu mùa năm 2019, chịu ảnh hưởng của diễn biến thời tiết phức tạp, khó lường; đầu vụ gieo trồng thời tiết tương đối thuận lợi; tuy nhiên, nắng nóng gay gắt và kéo dài liên tục đã làm khô hạn, gây khó khăn cho việc gieo trồng một số loại cây trồng trong khung thời vụ cũng như quá trình sinh trưởng của nhiều loại cây trồng; mặt khác, mưa lớn kèm theo lũ ống, lũ quét trong các ngày từ 30/7 đến 04/8 do ảnh hưởng của hoàn lưu bão số 3 kết hợp với hoạt động của dải hội tụ nhiệt đới, nhiều diện tích lúa, hoa mầu bị mất trắng và ngập úng. Theo báo cáo tiến độ sản xuất của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay hầu hết diện tích lúa đang trong giai đoạn chín sữa đến chín hoàn toàn, một số diện tích trà sớm đang thu hoạch. Tính đến ngày 19/9/2019, toàn tỉnh đã thu hoạch được 80,3 nghìn ha lúa, đạt 67,1% diện tích lúa gieo cấy. Do diễn biến thời tiết phức tạp, bất thường, nên mặc dù không có dịch bệnh lớn phát sinh, nhưng các loại sâu bệnh gây hại trên cây lúa như: rầy nâu, rầy lưng trắng, sâu keo mùa thu; bệnh khô vằn, bệnh bạc lá, bệnh đốm sọc vi khuẩn, bệnh lùn sọc đen phương Nam đã xuất hiện, gây hại rải rác tại một số huyện.

Tổng diện tích gieo trồng vụ thu mùa năm nay toàn tỉnh đạt 159,3 nghìn ha, giảm 3,4% so với cùng kỳ; trong đó: diện tích lúa 119,7 nghìn ha, giảm 4,2% so với cùng kỳ; ngô 14.104 ha, giảm 4,0% so cùng kỳ. Dự kiến năng suất lúa mùa đạt khoảng 52,5 tạ/ha, tăng 6,5% so cùng kỳ (tăng 3,2 tạ/ha); năng suất ngô 44,0 tạ/ha, tăng 12,0% so cùng kỳ; sản lượng lương thực có hạt 690,6 nghìn tấn, tăng 2,5% so với vụ mùa năm 2018.

b) Kết quả sản xuất vụ đông xuân: Sản xuất vụ đông 2018 - 2019 diễn ra trong điều kiện thời tiết cơ bản thuận lợi, cùng với sự nỗ lực của bà con nông dân là sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ngành; cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất kịp thời, có hiệu quả của tỉnh và các địa phương, nên đạt kết quả khá toàn diện; diện tích gieo trồng, năng suất thu hoạch của hầu hết các loại cây trồng đều cao hơn so với vụ đông năm trước. Vụ chiêm xuân diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi; tuy nhiên, thời tiết ấm từ đầu vụ giúp cây trồng phát triển nhưng cũng khiến sâu bệnh xuất hiện sớm và diễn biến phức tạp. Riêng đối với cây lúa, thời tiết và sâu bệnh có nhiều diễn biến phức tạp và khó lường; từ đầu vụ gieo trồng đến khi thu hoạch số ngày nắng ít, trời âm u, độ ẩm cao, nên năng suất lúa vụ chiêm xuân năm nay tuy đạt khá, nhưng thấp hơn vụ chiêm xuân năm 2018.

Tổng diện tích gieo trồng toàn tỉnh vụ đông xuân năm 2019 đạt 255 nghìn ha, giảm 0,4% so cùng kỳ; trong đó, vụ chiêm xuân 206,3 nghìn ha, giảm 1,8% so với cùng kỳ. Diện tích lúa 118,3 nghìn ha, giảm 1,1% so cùng kỳ; ngô 31,9 nghìn ha, tăng 5,5% (riêng ngô vụ xuân 15,6 nghìn ha, tăng 1,0%); lạc 8,8 nghìn ha, giảm 5,6% (riêng lạc vụ chiêm xuân 7.419 ha, giảm 7,6%); đậu tương 687 ha, giảm 24,8%; rau, đậu các loại 32 nghìn ha, tăng 6,1%; ớt cay 3.672 ha, tăng 3,5%; cây thức ăn gia súc 6.754 ha, tăng 0,7%...

Năng suất, sản lượng cây trồng vụ đông xuân năm 2019 như sau: Năng suất lúa 65,3 tạ/ha, giảm 2,1% so cùng kỳ; ngô 46,5 tạ/ha, tăng 2,2%; lạc 22,1 tạ/ha, giảm 0,2%; đậu tương 15,3 tạ/ha, giảm 6,1%; ớt cay 119,5 tạ/ha, tăng 26,2% so với vụ đông xuân năm 2018. Sản lượng lương thực có hạt 920,7 nghìn tấn, giảm 1,6% so cùng kỳ; trong đó vụ chiêm xuân 843,7 nghìn tấn, giảm 2,9% so cùng kỳ.

c) Chăn nuôi: Công tác phòng, chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm được tập trung chỉ đạo thường xuyên. Tuy nhiên, do diễn biến thời tiết bất thường; bên cạnh đó là tập quán chăn nuôi của người dân và chăn nuôi nhỏ lẻ còn chiếm tỷ trọng lớn, một bộ phận người chăn nuôi nhận thức kém trong công tác phòng, chống dịch bệnh; vì vậy, trong 9 tháng đầu năm 2019 tại một số địa phương trong tỉnh đã xuất hiện bệnh lở mồm, long móng trên đàn lợn. Nghiêm trọng hơn, từ ngày 23/02/2019 đến ngày 18/9/2019, trên địa bàn tỉnh, bệnh dịch tả lợn Châu Phi đã xảy ra tại 13.760 hộ của 1.626 thôn, 424 xã, phường, thị trấn của 27 huyện, thị xã, thành phố; buộc phải tiêu hủy 102.668 con lợn, trọng lượng 7.310,8 tấn. Tính đến 16 giờ ngày 18/9/2019, trên địa bàn tỉnh có 1.157 thôn của 241 xã thuộc 22 huyện đang còn dịch bệnh dịch tả lợn Châu Phi chưa qua 30 ngày.

Điều tra chăn nuôi kỳ 01/7/2019 được tiến hành điều tra toàn bộ doanh nghiệp, hợp tác xã chăn nuôi trâu, bò, lợn, gia cầm; thôn có chăn nuôi trâu, bò, lợn, gia cầm và vật nuôi khác; hộ chăn nuôi có quy mô lớn; kết hợp với điều tra chọn mẫu đối với các hộ chăn nuôi lợn, gia cầm có quy mô nhỏ của 27/27 huyện, thị xã, thành phố. Kết quả tổng hợp suy rộng như sau: Tại thời điểm 01/7/2019, toàn tỉnh có 180,7 nghìn con trâu, giảm 4,6% so với thời điểm 01/7/2018; 249,5 nghìn con bò (bao gồm cả bò sữa), tăng 1,6% so với thời điểm 01/7/2018; 998,3 nghìn con lợn (bao gồm cả lợn con), giảm 5,3% so với thời điểm 01/7/2018; 19,9 triệu con gia cầm, tăng 3,5% so với thời điểm 01/7/2018. Nguyên nhân chính khiến đàn lợn giảm so với cùng thời điểm năm trước là do Thanh Hóa chịu ảnh hưởng tương đối nặng nề và thiệt hại đáng kể do bệnh Dịch tả lợn Châu Phi gây ra từ cuối tháng 02/2019 đến nay.

Sản lượng thịt hơi xuất chuồng 9 tháng đầu năm 2019 ước đạt 179,5 nghìn tấn, tăng 0,2% so với cùng kỳ (riêng sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng ước đạt 104 nghìn tấn, giảm 2,4%); sản lượng gia cầm giết bán thịt 39,8 nghìn tấn, tăng 5,8% so với cùng kỳ.

1.2. Lâm nghiệp: Chín tháng đầu năm 2019, sản xuất lâm nghiệp gặp nhiều khó khăn do thời tiết diễn biến bất thường, song được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của các ngành chức năng, các đơn vị sản xuất giống lâm nghiệp đã chuẩn bị giống cây các loại, đảm bảo cây con phục vụ Tết trồng cây “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ” và trồng rừng vụ xuân hè năm 2019; bên cạnh đó là sự cố gắng của các hộ lâm nghiệp, nên kết quả sản xuất lâm nghiệp tăng so cùng kỳ. Dự ước, 9 tháng đầu năm 2019, diện tích trồng rừng tập trung 8.485 ha, giảm 7,0% so với cùng kỳ; trồng phân tán 1,4 triệu cây, giảm 4,9% so cùng kỳ; diện tích rừng được chăm sóc 42,0 nghìn ha, bằng cùng kỳ năm trước... Khai thác lâm sản: Gỗ 498,7 nghìn m3, tăng 7,6% so với cùng kỳ; tre luồng 44,65 triệu cây, tăng 6,8%; nguyên liệu giấy 62,3 nghìn tấn, tăng 3,5% so với cùng kỳ.

Công tác bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng thường xuyên được quan tâm chỉ đạo, các ngành chức năng luôn phối hợp với các địa phương và ban quản lý dự án tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia bảo vệ và phát triển rừng. Chín tháng đầu năm nay trên địa bàn tỉnh không xảy ra cháy rừng, an ninh rừng được giữ vững.

1.3. Thuỷ sản: Chín tháng đầu năm 2019, thời tiết tương đối thuận lợi cho việc khai thác, đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản; mặt khác, ngư dân đã đầu tư nâng cấp, đóng mới, thay mới và cải hoán nhiều tàu thuyền có công suất lớn, phục vụ cho việc đánh bắt xa bờ; nên kết quả sản xuất thuỷ sản tăng so với cùng kỳ. Sản lượng thủy sản 9 tháng đầu năm 2019 ước đạt 135 nghìn tấn, tăng 6,9% so với cùng kỳ; trong đó, sản lượng nuôi trồng 44 nghìn tấn tăng 9,7%; sản lượng khai thác 91 nghìn tấn, tăng 5,6%.

Toàn tỉnh hiện có 7.205 tàu thuyền có động cơ khai thác hải sản biển, với tổng công suất 669 nghìn CV; so với cùng kỳ tăng 0,1% về số tàu, tăng 15,5% về công suất; trong đó, tàu xa bờ (từ 90 CV trở lên) có 1.816 tàu, với tổng công suất 490,2 nghìn CV; so với cùng kỳ tăng 9,5% về số tàu, tăng 19,5% về công suất.

Trong tháng 3/2019, nhiều diện tích ngao giống, ngao thương phẩm tại các huyện Hậu Lộc và Nga Sơn bị chết, gây thiệt hại cho ngành thủy sản và người nuôi. Ngay sau khi xuất hiện hiện tượng trên, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tiến hành kiểm tra, lấy mẫu xét nghiệm. Kết quả phân tích cho thấy ngao giống chết tại huyện Nga Sơn là do sâu biển (hay còn gọi là rết biển) có tên khoa học là Chloeia.sp gây ra; ngao nuôi bị chết tại huyện Hậu Lộc do mật độ nuôi vượt quá mức cho phép và điều kiện môi trường biến động đột ngột. Sau khi có kết luận cụ thể về nguyên nhân ngao chết, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ đạo các huyện có diện tích nuôi ngao và cơ quan chức năng thực hiện tốt công tác quản lý vùng nuôi theo quy trình kỹ thuật và triển khai các biện pháp khắc phục.

2. Sản xuất công nghiệp: Chín tháng đầu năm 2019, ngành công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng cao chủ yếu nhờ vào sự đóng góp của Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn; bên cạnh đó, sản lượng sản xuất các sản phẩm chủ lực như: xi măng, thuốc lá, đường kết tinh, bia, quần áo may sẵn, giày dép các loại tăng khá so với cùng kỳ.

Chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành ước tính tháng 9/2019 tăng 2,39% so với tháng trước, tăng 16,62% so với tháng cùng kỳ; trong đó, công nghiệp khai khoáng tăng 8,94% so với tháng trước, giảm 16,33% so với tháng cùng kỳ; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,29% so với tháng trước, tăng 13,07% so với tháng cùng kỳ; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 3,45% so với tháng trước, tăng 89,64% so với tháng cùng kỳ; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,93% so với tháng trước, tăng 2,24% so với tháng cùng kỳ. Tính chung 9 tháng đầu năm 2019, chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành tăng 28,44% so với cùng kỳ (quý I tăng 39,57%, quý II tăng 33,06%, quý III tăng 15,36%); trong đó, công nghiệp khai khoáng giảm 2,84% (quý I tăng 0,04%, quý II tăng 0,64%, quý III giảm 9,85%); công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 29,90% (quý I tăng 44,33%, quý II tăng 36,08%, quý III tăng 13,31%); sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 14,77% (quý I giảm 4,47%, quý II tăng 5,69%, quý III tăng 49,01%); cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,22% so cùng kỳ (quý I tăng 5,95%, quý II tăng 4,50%, quý III tăng 2,20%).

Trong toàn ngành công nghiệp, các ngành có chỉ số sản xuất tính chung 9 tháng đầu năm 2019 tăng so với cùng kỳ gồm: Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế gấp 2,78 lần; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 68,63%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 40,25%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 14,77%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu huỷ rác thải, tái chế phế liệu tăng 11,25%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 9,69%; sản xuất trang phục tăng 2,78%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 2,01%;... Các ngành có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ gồm: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 57,30%; sản xuất xe có động cơ giảm 31,73%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác giảm 15,14%; công nghiệp dệt giảm 13,02%; sản xuất đồ uống giảm 4,78%; khai khoáng khác giảm 3,44%;...

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9/2019 dự kiến giảm 5,76% so với tháng trước, giảm 3,91% so với tháng cùng kỳ. Tính chung 9 tháng đầu năm 2019, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 1,36% so với cùng kỳ.

Chỉ số tồn kho của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9/2019 dự kiến tăng 6,62% so với tháng trước; tăng 43,60% so với tháng cùng kỳ năm trước.

Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tháng 9 năm 2019 tăng 1,84% so với tháng trước; tăng 8,42% so với tháng cùng kỳ năm trước; trong đó, khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 0,18% so với tháng trước; giảm 0,49% so với tháng cùng kỳ; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 0,44% so với tháng trước; tăng 3,33% so với tháng cùng kỳ; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 2,57% so với tháng trước; tăng 11,45% so với tháng cùng kỳ. Tính chung 9 tháng đầu năm 2019,sốlao độnglàm việctrong các doanh nghiệp công nghiệp tăng 10,19% so với cùng kỳ; trong đó, khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 0,42%; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 3,18%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 14,27% so với cùng kỳ năm trước.

3. Hoạt động của doanh nghiệp: Phát triển doanh nghiệp tiếp tục được quan tâm và đạt kết quả tích cực, tính từ đầu năm đến ngày 16/9/2019, thành lập mới 1.846 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký 15.909 tỷ đồng; so với cùng kỳ năm 2018, tăng 1,3% về số doanh nghiệp và tăng 24,0% về vốn đăng ký. Trong 9 tháng đầu năm 2019, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn quay trở lại hoạt động tăng 65,% so với cùng kỳ năm trước.

4. Đầu tư: Kế hoạch vốn đầu tư công năm 2019 từ nguồn cân đối ngân sách tỉnh, vốn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương và trái phiếu Chính phủ do tỉnh quản lý đã được Chủ tịch UBND tỉnh giao chi tiết cho các chủ đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư giải ngân và đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án. Chín tháng đầu năm 2019, các chủ đầu tư và nhà thầu tập trung đẩy nhanh tiến độ thi công các dự án trọng điểm, công trình chuyển tiếp. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành 9 tháng đầu năm 2019 ước đạt 69.148 tỷ đồng, tăng 12,7% so với cùng kỳ (quý I tăng 14,3%, quý II tăng 8,8%, quý III tăng 15,4%); trong đó, vốn ngân sách Nhà nước 9.017 tỷ đồng, tăng 22,0%; vốn trái phiếu Chính phủ 503 tỷ đồng, giảm 43,2%; vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch Nhà nước 3.713 tỷ đồng, tăng 6,8%; vốn vay từ các nguồn khác (của khu vực Nhà nước) 2.633 tỷ đồng, tăng 3,5%; vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 35.938 tỷ đồng, tăng 6,7%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 14.356 tỷ đồng, tăng 35,9% so với cùng kỳ năm 2018.

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước địa phương 9 tháng đầu năm 2019 ước đạt 5.567,2 tỷ đồng, bằng 71,3% kế hoạch năm và tăng 23,2% so với cùng kỳ (quý I tăng 15,2%, quý II tăng 25,9%, quý III tăng 27,6%), bao gồm: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 2.497,6 tỷ đồng, bằng 75,5% kế hoạch năm và tăng 16,8% so với cùng kỳ (quý I tăng 7,8%, quý II tăng 23,2%, quý III tăng 18,2%); vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện 1.613,5 tỷ đồng, bằng 65,2% kế hoạch năm và tăng 27,6% so với cùng kỳ (quý I tăng 19,4%, quý II tăng 28,4%, quý III tăng 34,3%); vốn ngân sách Nhà nước cấp xã 1.456,2 tỷ đồng, bằng 72,0% kế hoạch năm và tăng 30,4% so với cùng kỳ (quý I tăng 24,2%, quý II tăng 27,9%, quý III tăng 38,5%).

Các dự án lớn khởi công đầu tư xây dựng trong 9 tháng đầu năm 2019 gồm: Dự án Chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa tập trung quy mô công nghiệp tại xã Yên Mỹ và xã Công Bình, huyện Nông Cống của Công ty TNHH 2 thành viên ứng dụng công nghệ cao nông nghiệp và thực phẩm sữa Yên Mỹ, tổng vốn đầu tư khoảng 3.800 tỷ đồng; Dự án Dây chuyền 3 Nhà máy Xi măng Long Sơn của Công ty TNHH Long Sơn, tổng vốn đầu tư khoảng 3.400 tỷ đồng; Dự án Đường từ trung tâm thành phố Thanh Hóa nối với đường giao thông từ Cảng Hàng không Thọ Xuân đi Khu kinh tế Nghi Sơn (giai đoạn 1), tổng vốn đầu tư 499 tỷ đồng.

Các dự án lớn hoàn thành đầu tư xây dựng đi vào hoạt động trong 9 tháng đầu năm 2019 gồm: Bệnh viện Ung Bướu tỉnh Thanh Hóa, tổng vốn đầu tư 700 tỷ đồng; Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Hợp Lực (khu vực Nghi Sơn - Tĩnh Gia), tổng vốn đầu tư 700 tỷ đồng; Nhà máy luyện cán thép Nghi Sơn (giai đoạn 1), tổng mức đầu tư 4.950 tỷ đồng; khai trương tuyến dịch vụ vận tải container quốc tế và đón chuyến tàu container quốc tế đầu tiên đến Cảng tổng hợp Quốc tế Nghi Sơn.

5. Thu, chi ngân sách Nhà nước: Chín tháng đầu năm 2019, tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 19.727 tỷ đồng, đạt 74,0% dự toán (chín tháng đầu năm 2018 đạt 61,4%), tăng 47,2% so cùng kỳ; trong đó, thu nội địa 12.202 tỷ đồng, đạt 78,5% dự toán, tăng 28,8% so cùng kỳ. Các khoản thu chủ yếu tăng so cùng kỳ như: Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gấp 2,6 lần; thu từ doanh nghiệp Nhà nước Trung ương tăng 42,0%; thu thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh tăng 10,3%; lệ phí trước bạ tăng 20,2%; thu phí và lệ phí tăng 14,7%; thu khác ngân sách tăng 5,1% so với cùng kỳ. Riêng thu từ tiền sử dụng đất tăng 6,5%; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu tăng 91,4% so cùng kỳ.

Chi ngân sách địa phương 9 tháng đầu năm 2019 ước đạt 22.595 tỷ đồng, đạt 74,6% dự toán, tăng 4,3% so cùng kỳ; trong đó, chi đầu tư phát triển tăng 18,5%; chi thường xuyên tăng 5,0%; chi khác giảm 18,0% so với cùng kỳ.

6. Tín dụng, ngân hàng: Ngân hàng Nhà nước - Chi nhánh Thanh Hóa triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách có liên quan đến hoạt động của các ngân hàng theo sự chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước. Huy động vốn của các tổ chức tín dụng (không bao gồm Ngân hàng Phát triển) dự kiến đến 30/9/2019 đạt 94.678 tỷ đồng, tăng 14,0% so với tháng 12/2018. Tổng dư nợ (không bao gồm Ngân hàng Phát triển) dự kiến đến 30/9/2019 đạt 110.770 tỷ đồng, tăng 7,0% so với tháng 12/2018. Cơ cấu dư nợ khối các ngân hàng thương mại Nhà nước chiếm 65,8% tổng dư nợ; khối các ngân hàng thương mại cổ phần chiếm 19,5%; Ngân hàng Chính sách xã hội chiếm 8,4%; tổ chức tài chính vi mô chiếm 0,5%; Ngân hàng Hợp tác xã và hệ thống quỹ tín dụng nhân dân chiếm 5,8%.

7. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch

7.1. Doanh thu bán lẻ hàng hóa: Tháng 9, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 7.688,4 tỷ đồng, tăng 2,1% so với tháng trước, tăng 16,0% so với tháng cùng kỳ. Chín tháng đầu năm 2019, doanh thu bán lẻ hàng hoá ước đạt 68.289 tỷ đồng, tăng 15,0% so với cùng kỳ (quý I tăng 12,9%, quý II tăng 16,2%, quý III tăng 16,2%); trong đó, lương thực, thực phẩm tăng 18,3% (quý I tăng 23,2%, quý II tăng 11,7%, quý III tăng 20,0%); may mặc tăng 11,6% (quý I tăng 13,0%, quý II tăng 18,3%, quý III tăng 3,2%); đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 16,7% (quý I tăng 5,8%, quý II tăng 25,8%, quý III tăng 19,6%); vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 24,5% (quý I tăng 6,3%, quý II tăng 22,8%, quý III tăng 46,4%); phương tiện đi lại tăng 3,7% (quý I tăng 2,3%, quý II tăng 6,6%, quý III tăng 5,8%); xăng dầu tăng 11,7% (quý I tăng 10,5%, quý II tăng 15,9%, quý III tăng 8,7%)...

Công tác quản lý thị trường, kiểm tra, kiểm soát thị trường luôn được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo. Cục Quản lý thị trường phối hợp với các đơn vị liên quan tập trung kiểm tra, kiểm soát chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả; phối hợp với các địa phương có diễn ra hoạt động du lịch biển như Sầm Sơn, Hải Tiến, tổ chức tuyên truyền trên các phương tiện loa phát thanh công cộng, tổ chức ký cam kết đối với tất cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh phục vụ du lịch hè biển năm 2019 về việc thực hiện các quy định của Nhà nước trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại dịch vụ nhất là dịp nghỉ lễ. Kiểm tra các cơ sở sản xuất kinh doanh trong việc tuân thủ quy định về giá, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả; ngăn chặn, xử lý nghiêm các hành vi kinh doanh hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; các hành vi không niêm yết giá, bán hàng, thu tiền các dịch vụ cao hơn giá niêm yết; đặc biệt là việc nâng giá, ép giá. Tháng 8/2019, lực lượng Quản lý thị trường kiểm tra 305 vụ, xử lý 253 vụ, tổng số tiền thu nộp phạt là 708,7 triệu đồng.

7.2. Hoạt động lưu trú và ăn uống: Tháng 9/2019, doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống ước đạt 942 tỷ đồng, giảm 3,1% so với tháng trước và tăng 11,2% so với tháng cùng kỳ; trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú giảm 8,2% so với tháng trước và tăng 7,8% so với tháng cùng kỳ, doanh thu ăn uống giảm 1,9% so với tháng trước và tăng 12,0% so với tháng cùng kỳ; doanh thu du lịch lữ hành đạt 10,5 tỷ đồng, giảm 6,8% so với tháng trước và tăng 17,2% so với tháng cùng kỳ; doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác 410,1 tỷ đồng, tăng 2,5% so với tháng trước và tăng 11,6% so với tháng cùng kỳ.

Chín tháng đầu năm 2019, doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống ước đạt 8.647,7 tỷ đồng, tăng 15,7% so với cùng kỳ (quý I tăng 15,5%, quý II tăng 16,1%, quý III tăng 15,6%); trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú tăng 10,6% (quý I tăng 10,0%, quý II tăng 10,3%, quý III tăng 11,3%), doanh thu ăn uống tăng 17,1% (quý I tăng 16,9%, quý II tăng 17,6%, quý III tăng 16,7%); doanh thu du lịch lữ hành 99,7 tỷ đồng, tăng 15,1% (quý I tăng 12,6%, quý II tăng 15,0%, quý III tăng 17,4%); doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác 3.569,9 tỷ đồng, tăng 10,1% (quý I tăng 9,6%, quý II tăng 10,0%, quý III tăng 10,6%).

7.3. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ: Tháng 9/2019, chỉ số giá tiêu dùng tăng 0,37% so với tháng trước. Hai nhóm hàng hóa có chỉ số giá giảm là: nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD giảm 0,49%, nhóm giao thông giảm 0,97%. Ba nhóm hàng hóa giá cả ổn định chỉ số giá không tăng là: nhóm đồ uống và thuốc lá; nhóm bưu chính viễn thông và nhóm văn hóa, giải trí và du lịch. Sáu nhóm hàng hóa có chỉ số giá tăng là: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,11% (lương thực tăng 2,04%, thực phẩm tăng 1,25%); nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,05%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,04%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,20%; nhóm giáo dục tăng 0,68%; nhóm đồ dùng và dịch vụ khác tăng 0,78%. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 năm 2019 tăng 2,08 so với tháng 12 năm 2018 và tăng 1,77% so với tháng cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng đầu năm 2019 tăng 2,10% so với bình quân cùng kỳ (quý I tăng 2,58%, quý II tăng 2,22%, quý III tăng 1,48%), một số nhóm hàng hóa có chỉ số giá tăng cao so cùng kỳ là: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,63% (thực phẩm tăng 3,72%, lương thực tăng 1,27%); nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 3,94%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 2,09%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 3,02% (dịch vụ y tế tăng 4,17%); nhóm giáo dục tăng 3,32% (dịch vụ giáo dục tăng từ 3,34%)...; riêng nhóm giao thông giảm 1,21% (do tác động của các lần điều chỉnh giảm giá xăng, dầu trong 9 tháng đầu năm 2019). Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng đầu năm nay tăng cao hơn cùng kỳ năm 2015, 2016; nhưng thấp hơn cùng kỳ năm 2017, 2018 (9 tháng đầu năm 2015 tăng 0,51%; 9 tháng đầu năm 2016 tăng 1,98%; 9 tháng đầu năm 2017 tăng 2,70%; 9 tháng đầu năm 2018 tăng 3,89%).

Chỉ số giá vàng tháng 9/2019 tăng 3,43% so với tháng trước, tăng 18,30% so với tháng 12/2018, tăng 20,54% so với tháng cùng kỳ năm trước; bình quân 9 tháng đầu năm 2019 tăng 4,71% so với bình quân cùng kỳ năm 2018. Chỉ số giá đô la Mỹ giảm 0,04% tháng trước, giảm 0,40% so với tháng 12/2018, giảm 0,30% so với tháng cùng kỳ năm trước; bình quân 9 tháng đầu năm 2019 tăng 1,58% so với bình quân cùng kỳ năm 2018.

7.4. Vận tải hành khách và hàng hóa: Tháng 9, doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 904,3 tỷ đồng, tăng 1,3% so với tháng trước, tăng 10,9% so với tháng cùng kỳ; trong đó, doanh thu vận tải hành khách 326,2 tỷ đồng, tăng 2,5% so với tháng trước, tăng 14,9% so với tháng cùng kỳ; doanh thu vận tải hàng hóa 530,5 tỷ đồng, tăng 0,5% so với tháng trước, tăng 7,4% so với tháng cùng kỳ. Hàng hóa vận chuyển đạt 4,8 triệu tấn, tăng 1,1% so với tháng trước, tăng 3,5% so với tháng cùng kỳ; hàng hóa luân chuyển 226,1 triệu tấn.km tăng 0,4% so với tháng trước, tăng 0,5% so với tháng cùng kỳ; hành khách vận chuyển đạt 4,3 triệu người, tăng 1,5% so với tháng trước, tăng 16,1% so với tháng cùng kỳ; hành khách luân chuyển đạt 260,5 triệu người.km, tăng 1,6% so với tháng trước, tăng 17,5% so với tháng cùng kỳ

Chín tháng đầu năm 2019, doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 7.962,3 tỷ đồng, tăng 11,5% so với cùng kỳ (quý I tăng 11,6%, quý II tăng 11,8%, quý III tăng 11,2%); trong đó, doanh thu vận tải hành khách 2.899,1 tỷ đồng, tăng 19,9% (quý I tăng 28,7%, quý II tăng 19,0%, quý III tăng 13,1%); doanh thu vận tải hàng hóa 4.658,2 tỷ đồng, tăng 5,9% (quý I tăng 2,7%, quý II tăng 6,3%, quý III tăng 8,9%). Vận chuyển hàng hoá đạt 43 triệu tấn, luân chuyển hàng hoá đạt 2.043,2 triệu tấn.km, tăng 4,2% về hàng hóa vận chuyển (quý I tăng 5,2%, quý II tăng 3,8%, quý III tăng 3,7%), tăng 1,5% về hàng hóa luân chuyển so với cùng kỳ (quý I tăng 1,8%, quý II tăng 1,6%, quý III tăng 1,0%); vận chuyển hành khách 38,2 triệu người, luân chuyển hành khách 2.278,9 triệu người.km, tăng 17,1% về hành khách vận chuyển (quý I tăng 19,0%, quý II tăng 16,4%, quý III tăng 16,2%), tăng 18,0% về hành khách luân chuyển so với cùng kỳ (quý I tăng 20,2%, quý II tăng 16,7%, quý III tăng 17,4%).

8. Một số tình hình xã hội

8.1. Đời sống dân cư và an sinh xã hội: Chín tháng đầu năm 2019, nhìn chung đời sống dân cư trên địa bàn tỉnh có nhiều cải thiện về mặt tinh thần cũng như về vật chất; văn hoá, giáo dục phát triển toàn diện; các chính sách xã hội được chú trọng; an ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội đảm bảo. Tuy nhiên, do thời tiết diễn biến thất thường, mưa trái mùa, nắng nóng kéo dài, thiên tai, dịch bệnh xảy ra trên cây trồng, vật nuôi… đã ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của một bộ phận dân cư. Tính chung 9 tháng đầu năm nay, toàn tỉnh có 3.219 lượt hộ tương ứng với 12.445 lượt nhân khẩu thiếu đói, so với cùng kỳ tăng 53,9% về số hộ và gấp 3,03 lần về số nhân khẩu thiếu đói; tỷ lệ hộ thiếu đói bình quân 9 tháng đầu năm 0,33%, tăng 0,31% so với cùng kỳ năm 2018.

Công tác an sinh, phúc lợi xã hội được quan tâm; các chế độ, chính sách đối với người có công, đối tượng bảo trợ xã hội, người nghèo và công nhân lao động được triển khai thực hiện chu đáo, kịp thời, nhất là trong các dịp lễ Tết, kỷ niệm... Thực hiện trợ cấp thường xuyên cho trên 203,6 nghìn đối tượng bảo trợ xã hội; hỗ trợ trên 1,1 nghìn tấn gạo cho gần 18,1 nghìn hộ dân trong dịp tết Nguyên đán và thời kỳ giáp hạt; thực hiện tốt các hoạt động tri ân người có công với cách mạng nhân dịp tết Nguyên đán Kỷ Hợi năm 2019 và kỷ niệm 72 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ (trong đợt cao điểm tri ân nhân ngày Thương binh - Liệt sĩ đã có 98.037 người có công với cách mạng được nhận quà của Chủ tịch nước và quà của tỉnh, tổng kinh phí thực hiện trên 34,7 tỷ đồng). Quan tâm xử lý, giải quyết kịp thời các chế độ, chính sách đối với người có công với cách mạng và thân nhân theo đúng quy định. Bên cạnh đó, triển khai thực hiện các hoạt động khắc phục hậu quả thiên tai, sớm ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân bị thiệt hại do ảnh hưởng của mưa bão, lũ lụt; tích cực theo dõi, rà soát, nắm chắc tình hình về nhu cầu hỗ trợ lương thực của người dân để hỗ trợ hoặc tham mưu phương án hỗ trợ kịp thời, đảm bảo không để người dân nào bị đói, bị khát hoặc không có nơi cư trú.

8.2. Lao động, việc làm: Theo báo cáo của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, trong 9 tháng đầu năm 2019, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm cho 59,6 nghìn lao động (đạt 87,7% kế hoạch năm, tăng 13,6% so với cùng kỳ); trong đó, đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài 7,3 nghìn lao động (đạt 73,0% kế hoạch năm, tăng 5,1% so với cùng kỳ. Công tác đào tạo nghề được quan tâm, chín tháng đầu năm, đã tuyển mới và đào tạo nghề cho 71,2 nghìn người, đạt 82,1% kế hoạch, tăng 16,7% so với cùng kỳ; trong đó, trình độ cao đẳng 1,9 nghìn người, trung cấp 5 nghìn người, sơ cấp và dưới 3 tháng 64,3 nghìn người.

8.3. Y tế: Trong chín tháng đầu năm nay, ngành Y tế đã tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; công tác y tế dự phòng được tăng cường, vật tư, hoá chất được cung cấp đầy đủ cho các đơn vị để chủ động phòng, chống, khoanh vùng và có biện pháp xử lý, chữa trị kịp thời; trên địa bàn tỉnh không có dịch bệnh lớn xảy ra. Tuy nhiên, từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh vẫn phát sinh một số bệnh thông thường: Đến ngày 08/9/2019 toàn tỉnh ghi nhận 275 ca sốt xuất huyết, 396 ca SPB nghi sởi, 347 ca tay chân miệng, 01 ca dại (tử vong 01 người), 144 ca ho gà, 04 ca uốn ván, 16 ca viêm não vi rút khác, 66 ca viêm gan vi rút B; phát hiện mới 12 bệnh nhân mắc sốt rét.

Công tác phòng chống HIV/AIDS được đẩy mạnh; lũy kế số người nhiễm HIV/AIDS được phát hiện đến 30/8/2019 là 8.308 người, trong đó số người nhiễm HIV còn sống, được quản lý là 4.173 người. Hiện có 3.790 người nhiễm HIV/AIDS đang được điều trị bằng thuốc kháng virus ARV tại 34 cơ sở điều trị. Toàn tỉnh đã triển khai cung cấp dịch vụ điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone cho 27 cơ sở điều trị và 17 điểm cấp phát thuốc tại 24 huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh. Số bệnh nhân hiện đang điều trị bằng thuốc Methadone là 2.569 bệnh nhân.

Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được chú trọng, ngành Y tế tham mưu cho Ban chỉ đạo Quản lý về vệ sinh an toàn thực phẩm tỉnh tổ chức Lễ phát động Tháng hành động vì an toàn thực phẩm năm 2019 quy mô cấp tỉnh với chủ đề “Nói không với thực phẩm giả, thực phẩm kém chất lượng; bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”. Chín tháng đầu năm, đã tổ chức kiểm tra 574 cơ sở thực phẩm, xử lý 48/48 cơ sở vi phạm, phạt tiền 299,5 triệu đồng.

8.4. Giáo dục, đào tạo: Sáng ngày 05/9, gần 851 nghìn học sinh các cấp học phổ thông trên địa bàn toàn tỉnh bước vào khai giảng năm học mới 2019 - 2020. So với các năm học trước, quy mô học sinh các cấp học đều tăng, trong đó cấp tiểu học tăng nhiều nhất với khoảng hơn 26 nghìn học sinh. Để chuẩn bị cho cán bộ, giáo viên và học sinh bước vào năm học mới với tâm thế tốt nhất, Sở Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo phòng Giáo dục và Đào tạo các huyện, thị xã, thành phố, hiệu trưởng các trường chuẩn bị tốt cơ sở vật chất, vệ sinh trường lớp, tạo cảnh quan khu vực nhà trường sạch, đẹp, văn minh phục vụ năm học mới.

Năm học 2018 - 2019, ngành Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa đã hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học, kết quả giáo dục được nâng lên. Kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2018 diễn ra an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế; kết quả có 31.457/34.049 thí sinh đỗ tốt nghiệp THPT, đạt tỷ lệ 92,39% (hệ THPT đạt tỷ lệ 94,39%; hệ GDTX đạt tỷ lệ 64,04%); toàn tỉnh Thanh Hóa có 35 bài thi đạt điểm 10; 107 học sinh đạt 27 điểm trở lên ở 3 môn xét tuyển đại học, cao đẳng. Chất lượng giáo dục mũi nhọn tiếp tục duy trì và có bước đột phá cả về số lượng và chất lượng; kết quả các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, khu vực và quốc tế, Thanh Hóa liên tục trong tốp đầu của cả nước. Trong kỳ thi học sinh giỏi THPT Quốc gia, Thanh Hóa đạt 65 giải, trong đó có 7 giải nhất; tham gia dự thi Olympic quốc tế, đạt 04 huy chương (01 huy chương Vàng môn Vật lý; 01 huy chương Vàng môn Hóa học; 01 huy chương Vàng môn Tin học và 01 huy chương Bạc môn Sinh học); dự thi khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đạt 01 huy chương Đồng môn Vật lý. Kết quả trên đưa học sinh Thanh Hóa dẫn đầu toàn quốc khi tham gia các kỳ thi Olympic quốc tế năm 2019 và là năm thứ 4 liên tiếp, Thanh Hóa có học sinh đoạt huy chương tại các kỳ thi Olympic quốc tế và khu vực.

Tính từ đầu năm đến đầu tháng 9/2018, toàn tỉnh có 1.439/2.076 trường đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 69,32%; trong đó, Mầm non 446/681 trường, đạt tỷ lệ 65,5%; tiểu học 550/650 trường, đạt tỷ lệ 84,62%; trung học cơ sở 390/590 trường; đạt tỷ lệ 66,1%; tiểu học - THCS 20/52 trường, đạt tỷ lệ 37,25%; trung học phổ thông 33/103 trường, đạt tỷ lệ 32,04%.

Năm 2019, Trường Đại học Hồng Đức tuyển sinh đào tạo 31 ngành Đại học, 5 ngành Cao đẳng với tổng số 1.530 chỉ tiêu; Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch là 1.100 chỉ tiêu tuyển sinh ở 17 chuyên ngành; CaoY tế Thanh Hóa là 920 chỉ tiêu ở 8 chuyên ngành đạo. Đến nay, các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh đã kết thúc xét tuyển. Đại học Hồng Đức xét tuyển được 900 thí sinh, đạt 58,82% so với kế hoạch, giảm 25% so với năm trước; Đại học Văn hoá, Thể thao và Du lịch xét tuyển được 700 thí sinh, đạt 63,36% so với kế hoạch, tăng so với cùng kỳ năm trước 395 thí sinh (1,3 lần); Cao đẳng Y tế Thanh Hoá xét tuyển được 370 thí sinh, đạt 40,2% so với kế hoạch, giảm 164 thí sinh so với năm trước.

8.5. Văn hoá - Thể dục thể thao: Chín tháng đầu năm 2019, ngành Văn hoá thông tin, Truyền thông đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền các chủ chương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các sự kiện chính trị, các ngày kỷ niệm, lễ, tết và các nhiệm vụ chính trị của địa phương; tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao chào mừng các ngày lễ, kỷ niệm lớn của đất nước và các sự kiện chính trị của địa phương, nổi bật như: các hoạt động mừng Đảng - mừng Xuân Kỷ Hợi 2019; Chương trình nghệ thuật phục vụ Lễ kỷ niệm 990 năm Thanh Hóa; tham gia Liên hoan Tuồng và Dân ca kịch toàn quốc - 2019; Hội thảo khoa học, trưng bày chuyên đề Bác Hồ với Thanh Hóa - Thanh Hóa 50 năm thực hiện Di chúc của “Chủ tịch Hồ Chí Minh"; phim tuyên truyền kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969 - 2019) và 50 năm ngày mất của Người (02/9/1969 - 02/9/2019)..., góp phần tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong các tầng lớp nhân dân, giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống của văn hóa Việt Nam, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở tiếp tục được đẩy mạnh, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" tiếp tục được quan tâm thực hiện, trong đó chú trọng đến mục tiêu nâng cao chất lượng phong trào và lồng ghép với phong trào xây dựng nông thôn mới, xây dựng nếp sống văn minh đô thi. Tính đến tháng 9/2019, toàn tỉnh có 3.257 làng, bản, khu phố đăng ký xây dựng văn hóa, vượt 22,6% kế hoạch; 221 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đăng ký xây dựng đạt chuẩn văn hóa, vượt 67,4% kế hoạch; 41 xã đăng ký xây dựng đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới, gấp 2,05 lần kế hoạch; 04 phường đăng ký đạt chuẩn văn minh đô thị, vượt 33,3% kế hoạch năm 2019.

Phong trào thể dục thể thao quần chúngtiếp tục được duy trì; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng cuộc vận động "Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại". Chín tháng đầu năm 2019, tổ chức thành công 11 giải thi đấu thể thao và sự kiện TDTT quần chúng cấp tỉnh; 130 giải thể thao cấp huyện, thị xã, thành phố và 1.035 giải thể thao cấp xã, phường, thị trấn; số người tham gia tập luyện thể dục, thể thao thường xuyên 1.510,6 nghìn người, đạt tỷ lệ 41,5% dân số; 279 nghìn hộ gia đình thể thao, đạt 29% số hộ; 100% trường học đảm bảo chương trình giáo dục thể chất; 100% cán bộ chiến sỹ, lực lượng vũ trang đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể.

Thể thao thành tích cao được tăng cường luyện tập, chuẩn bị tham gia thi đấu các giải quốc gia, quốc tế theo kế hoạch. Tổ chức thành công các giải thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp, như: Giải súng hơi thanh thiếu niên toàn quốc năm 2019; Giải vô địch Cầu mây quốc gia năm 2019 tại thành phố Sầm Sơn, giải vô địch Muay toàn quốc 2019, giải vô địch Pencaksilat miền Bắc và bắc Trung Bộ 2019; giải Bơi - Lặn vô địch các CLB quốc gia khu vực I 2019; tham gia thi đấu các giải quốc tế: Boxing, Quần vợt, Pencaksilat, Taekwondo, Karate, Bơi, Lặn, Arnis (võ gậy),... Tính từ đầu năm đến nay, các đoàn thể thao Thanh Hóa thi đấu 79 giải quốc gia, quốc tế đạt 376 huy chương các loại, gồm 105 HCV, 118 HCB, 153 HCĐ. Đội tuyển U15 giành HCB Giải bóng đá U15 toàn quốc; Đội U17 giành chức vô địch Giải bóng đá U17 toàn quốc. Câu lạc bộ Bóng đá Thanh Hóa tham gia giải bóng đá vô địch quốc gia Wake-up 247 V.League 1 - 2019, sau 23 trận đấu, giành được 25 điểm, xếp thứ 13/14 đội.

8.6. Tai nạn giao thông: Công an giao thông, Thanh tra giao thông phối hợp với các ngành, các địa phương huy động lực lượng, phương tiện, triển khai đồng bộ các biện pháp công tác, bố trí lực lượng, tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm an toàn giao thông. Theo báo cáo của Ban An toàn giao thông tỉnh, 8 tháng đầu năm 2019, toàn tỉnh xảy ra 312 vụ tai nạn giao thông, làm 114 người chết và 287 người bị thương; so với cùng kỳ năm 2018, giảm 0,6% về số vụ, tăng 12,9% về số người chết và tăng 7,9% về số người bị thương.

Lực lượng cảnh sát giao thông, trật tự và cơ động đã tăng cường tuần tra, kiểm soát, ngăn chặn tình trạng đua xe trái phép, không đội mũ bảo hiểm, xe ô tô chạy quá tốc độ, xe khách chở quá số người qui định, kiểm tra trọng tải phương tiện. Chín tháng đầu năm 2019, cảnh sát giao thông đã phát hiện, xử lý, xử phạt 51.836 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, tạm giữ 7.551 phương tiện các loại, tổng số tiền phạt vi phạm 61.902 triệu đồng; thanh tra giao thông lập biên bản, xử lý, xử phạt 442 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, phạt vi phạm 4.532 triệu đồng.

8.7. Thiệt hại do thiên tai: Tính từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã xảy ra 11 đợt thiên tai, làm chết 13 người, mất tích 6 người, bị thương 8 người, thiệt hại về tài sản ước tính sơ bộ khoảng 1.485 tỷ đồng. Đặc biệt nghiêm trọng là đợt đợt thiên tai do ảnh hưởng của hoàn lưu bão số 3 kết hợp với hoạt động của dải hội tụ nhiệt đới, trong các ngày từ 30/7 đến 04/8 trên địa bàn tỉnh đã có mưa to đến rất to, cộng thêm nước lũ từ thượng nguồn đổ về, đã gây ra lũ ống, lũ quét, ngập lụt, sạt lở đất ở nhiều nơi, đặc biệt là tại bản Sa Ná, xã Na Mèo, huyện Quan Sơn và bản Pá Hộc, xã Nhi Sơn, huyện Mường Lát; làm 10 người chết, 6 người mất tích, 5 người bị thương; 409 hộ gia đình bị thiệt hại về nhà và ảnh hưởng đến chỗ ở; 263,98 ha lúa; 48,72 ha cây hàng năm; 20,9 ha hoa màu; 142,01 ha ao cá bị thiệt hại; 1.685 con gia súc; 6.740 con gia cầm bị chết, cuốn trôi; nhiều công trình giao thông, thủy lợi, trường học bị hư hỏng, thiệt hại ước tính ban đầu khoảng 822 tỷ đồng.

Phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái “Lá lành đùm lá rách”, với tinh thần “Nhường cơm sẻ áo”, đã có rất nhiều các cơ quan, đơn vị, các địa phương, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang, các nhà hảo tâm, cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân trong và ngoài tỉnh đã quyên góp tiền và vật chất để ủng hộ nhân dân vùng bị thiệt hại sớm vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống. Ngay sau mỗi đợt thiên tai xảy ra, các địa phương đã huy động lực lượng dân quân cùng với bà con nhân dân nhanh chóng khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra; lãnh đạo tỉnh và các địa phương bị thiệt hại đã trực tiếp xuống cơ sở động viên thăm hỏi, trao quà hỗ trợ và chỉ đạo chính quyền xã, thôn, bản khẩn trương giúp đỡ người dân khắc phục nhà cửa bị hư hại, sớm ổn định cuộc sống và sản xuất kinh doanh.

8.8. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ

- Môi trường: Tháng 8/2019, phát hiện 32 vụ vi phạm môi trường, xử lý phạt vi phạm 29 vụ (TP Thanh Hóa 8 vụ; Thọ Xuân, Nga Sơn, Thạch Thành mỗi địa phương 3 vụ; Triệu Sơn, Lang Chánh, Như Xuân, Cẩm Thủy, mỗi địa phương 2 vụ; TP Sầm Sơn, Yên Định, Bá Thước, Hậu Lộc mỗi địa phương 1 vụ); xử phạt hành chính 309,6 triệu đồng. Tính chung 8 tháng đầu năm 2019, toàn tỉnh xảy ra 127 vụ vi phạm môi trường, gấp 2,2 lần cùng kỳ, xử phạt hành chính 118 vụ, tổng số tiền phạt vi phạm 2.127 triệu đồng.

- Cháy, nổ: Tháng 8/2019, xảy 9 vụ cháy(TP Thanh Hóa 4 vụ; Triệu Sơn 2 vụ; TP Sầm Sơn, Hoằng Hóa, Thọ Xuân mỗi địa phương 1 vụ);thiệt hại 112 triệu đồng. Tính chung 8 tháng đầu năm 2019, toàn tỉnh xảy ra 92 vụ cháy và 1 vụ nổ, gấp 2,9 lần cùng kỳ, thiệt hại về tài sản 9.475 triệu đồng.

Khái quát lại, chín tháng đầu năm 2019, với sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp, các ngành; đi kèm với đó là những giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Mặt khác, các doanh nghiệp cùng toàn thể nhân dân trong tỉnh ra sức thi đua sản xuất lập thành tích chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, của tỉnh; đặc biệt, trong tháng Năm đã tổ chức các hoạt động tiến tới kỷ niệm và Lễ kỷ niệm 990 năm Thanh Hóa (1029 - 2019) nhằm thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn; giáo dục, khơi dậy và động viên nhân dân phát huy lòng tự hào về truyền thống lịch sử - cách mạng, phấn đấu xây dựng Thanh Hóa sớm trở thành tỉnh kiểu mẫu, tỉnh công nghiệp; đây còn là dịp giới thiệu, quảng bá nét đẹp của vùng đất và con người xứ Thanh, tiềm năng thế mạnh về kinh tế - du lịch tới bạn bè, du khách trong và ngoài nước; nên kinh tế tiếp tục phát triển, nhiều chỉ tiêu thuộc các lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp, thương mại dịch vụ, vận tải,... tăng so với cùng kỳ. Tuy nhiên, sản xuất kinh doanh của một bộ phận doanh nghiệp còn gặp khó khăn, tiến độ thực hiện một số dự án trọng điểm chậm, đời sống một bộ phận dân cư còn gặp khó khăn, bệnh dịch tả lợn Châu Phi gây thiệt hại tương đối lớn cho ngành chăn nuôi của tỉnh; mưa, lũ do ảnh hưởng của bão số 3 tại một số địa phương trong tỉnh làm thiệt hại lớn về người và tài sản, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống của nhân dân; tai nạn giao thông so với cùng kỳ năm trước tuy giảm nhẹ về số vụ, nhưng tăng khá cao về số người chết và số người bị thương.

CỤC THỐNG KÊ THANH HÓA

Tình hình kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng đầu năm 2019 Tỉnh Thanh Hóa

Đăng lúc: 02/10/2019 (GMT+7)
100%

1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

1.1. Nông nghiệp

a) Sản xuất vụ thu mùa: Vụ thu mùa năm 2019, chịu ảnh hưởng của diễn biến thời tiết phức tạp, khó lường; đầu vụ gieo trồng thời tiết tương đối thuận lợi; tuy nhiên, nắng nóng gay gắt và kéo dài liên tục đã làm khô hạn, gây khó khăn cho việc gieo trồng một số loại cây trồng trong khung thời vụ cũng như quá trình sinh trưởng của nhiều loại cây trồng; mặt khác, mưa lớn kèm theo lũ ống, lũ quét trong các ngày từ 30/7 đến 04/8 do ảnh hưởng của hoàn lưu bão số 3 kết hợp với hoạt động của dải hội tụ nhiệt đới, nhiều diện tích lúa, hoa mầu bị mất trắng và ngập úng. Theo báo cáo tiến độ sản xuất của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay hầu hết diện tích lúa đang trong giai đoạn chín sữa đến chín hoàn toàn, một số diện tích trà sớm đang thu hoạch. Tính đến ngày 19/9/2019, toàn tỉnh đã thu hoạch được 80,3 nghìn ha lúa, đạt 67,1% diện tích lúa gieo cấy. Do diễn biến thời tiết phức tạp, bất thường, nên mặc dù không có dịch bệnh lớn phát sinh, nhưng các loại sâu bệnh gây hại trên cây lúa như: rầy nâu, rầy lưng trắng, sâu keo mùa thu; bệnh khô vằn, bệnh bạc lá, bệnh đốm sọc vi khuẩn, bệnh lùn sọc đen phương Nam đã xuất hiện, gây hại rải rác tại một số huyện.

Tổng diện tích gieo trồng vụ thu mùa năm nay toàn tỉnh đạt 159,3 nghìn ha, giảm 3,4% so với cùng kỳ; trong đó: diện tích lúa 119,7 nghìn ha, giảm 4,2% so với cùng kỳ; ngô 14.104 ha, giảm 4,0% so cùng kỳ. Dự kiến năng suất lúa mùa đạt khoảng 52,5 tạ/ha, tăng 6,5% so cùng kỳ (tăng 3,2 tạ/ha); năng suất ngô 44,0 tạ/ha, tăng 12,0% so cùng kỳ; sản lượng lương thực có hạt 690,6 nghìn tấn, tăng 2,5% so với vụ mùa năm 2018.

b) Kết quả sản xuất vụ đông xuân: Sản xuất vụ đông 2018 - 2019 diễn ra trong điều kiện thời tiết cơ bản thuận lợi, cùng với sự nỗ lực của bà con nông dân là sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ngành; cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất kịp thời, có hiệu quả của tỉnh và các địa phương, nên đạt kết quả khá toàn diện; diện tích gieo trồng, năng suất thu hoạch của hầu hết các loại cây trồng đều cao hơn so với vụ đông năm trước. Vụ chiêm xuân diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận lợi; tuy nhiên, thời tiết ấm từ đầu vụ giúp cây trồng phát triển nhưng cũng khiến sâu bệnh xuất hiện sớm và diễn biến phức tạp. Riêng đối với cây lúa, thời tiết và sâu bệnh có nhiều diễn biến phức tạp và khó lường; từ đầu vụ gieo trồng đến khi thu hoạch số ngày nắng ít, trời âm u, độ ẩm cao, nên năng suất lúa vụ chiêm xuân năm nay tuy đạt khá, nhưng thấp hơn vụ chiêm xuân năm 2018.

Tổng diện tích gieo trồng toàn tỉnh vụ đông xuân năm 2019 đạt 255 nghìn ha, giảm 0,4% so cùng kỳ; trong đó, vụ chiêm xuân 206,3 nghìn ha, giảm 1,8% so với cùng kỳ. Diện tích lúa 118,3 nghìn ha, giảm 1,1% so cùng kỳ; ngô 31,9 nghìn ha, tăng 5,5% (riêng ngô vụ xuân 15,6 nghìn ha, tăng 1,0%); lạc 8,8 nghìn ha, giảm 5,6% (riêng lạc vụ chiêm xuân 7.419 ha, giảm 7,6%); đậu tương 687 ha, giảm 24,8%; rau, đậu các loại 32 nghìn ha, tăng 6,1%; ớt cay 3.672 ha, tăng 3,5%; cây thức ăn gia súc 6.754 ha, tăng 0,7%...

Năng suất, sản lượng cây trồng vụ đông xuân năm 2019 như sau: Năng suất lúa 65,3 tạ/ha, giảm 2,1% so cùng kỳ; ngô 46,5 tạ/ha, tăng 2,2%; lạc 22,1 tạ/ha, giảm 0,2%; đậu tương 15,3 tạ/ha, giảm 6,1%; ớt cay 119,5 tạ/ha, tăng 26,2% so với vụ đông xuân năm 2018. Sản lượng lương thực có hạt 920,7 nghìn tấn, giảm 1,6% so cùng kỳ; trong đó vụ chiêm xuân 843,7 nghìn tấn, giảm 2,9% so cùng kỳ.

c) Chăn nuôi: Công tác phòng, chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm được tập trung chỉ đạo thường xuyên. Tuy nhiên, do diễn biến thời tiết bất thường; bên cạnh đó là tập quán chăn nuôi của người dân và chăn nuôi nhỏ lẻ còn chiếm tỷ trọng lớn, một bộ phận người chăn nuôi nhận thức kém trong công tác phòng, chống dịch bệnh; vì vậy, trong 9 tháng đầu năm 2019 tại một số địa phương trong tỉnh đã xuất hiện bệnh lở mồm, long móng trên đàn lợn. Nghiêm trọng hơn, từ ngày 23/02/2019 đến ngày 18/9/2019, trên địa bàn tỉnh, bệnh dịch tả lợn Châu Phi đã xảy ra tại 13.760 hộ của 1.626 thôn, 424 xã, phường, thị trấn của 27 huyện, thị xã, thành phố; buộc phải tiêu hủy 102.668 con lợn, trọng lượng 7.310,8 tấn. Tính đến 16 giờ ngày 18/9/2019, trên địa bàn tỉnh có 1.157 thôn của 241 xã thuộc 22 huyện đang còn dịch bệnh dịch tả lợn Châu Phi chưa qua 30 ngày.

Điều tra chăn nuôi kỳ 01/7/2019 được tiến hành điều tra toàn bộ doanh nghiệp, hợp tác xã chăn nuôi trâu, bò, lợn, gia cầm; thôn có chăn nuôi trâu, bò, lợn, gia cầm và vật nuôi khác; hộ chăn nuôi có quy mô lớn; kết hợp với điều tra chọn mẫu đối với các hộ chăn nuôi lợn, gia cầm có quy mô nhỏ của 27/27 huyện, thị xã, thành phố. Kết quả tổng hợp suy rộng như sau: Tại thời điểm 01/7/2019, toàn tỉnh có 180,7 nghìn con trâu, giảm 4,6% so với thời điểm 01/7/2018; 249,5 nghìn con bò (bao gồm cả bò sữa), tăng 1,6% so với thời điểm 01/7/2018; 998,3 nghìn con lợn (bao gồm cả lợn con), giảm 5,3% so với thời điểm 01/7/2018; 19,9 triệu con gia cầm, tăng 3,5% so với thời điểm 01/7/2018. Nguyên nhân chính khiến đàn lợn giảm so với cùng thời điểm năm trước là do Thanh Hóa chịu ảnh hưởng tương đối nặng nề và thiệt hại đáng kể do bệnh Dịch tả lợn Châu Phi gây ra từ cuối tháng 02/2019 đến nay.

Sản lượng thịt hơi xuất chuồng 9 tháng đầu năm 2019 ước đạt 179,5 nghìn tấn, tăng 0,2% so với cùng kỳ (riêng sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng ước đạt 104 nghìn tấn, giảm 2,4%); sản lượng gia cầm giết bán thịt 39,8 nghìn tấn, tăng 5,8% so với cùng kỳ.

1.2. Lâm nghiệp: Chín tháng đầu năm 2019, sản xuất lâm nghiệp gặp nhiều khó khăn do thời tiết diễn biến bất thường, song được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của các ngành chức năng, các đơn vị sản xuất giống lâm nghiệp đã chuẩn bị giống cây các loại, đảm bảo cây con phục vụ Tết trồng cây “Đời đời nhớ ơn Bác Hồ” và trồng rừng vụ xuân hè năm 2019; bên cạnh đó là sự cố gắng của các hộ lâm nghiệp, nên kết quả sản xuất lâm nghiệp tăng so cùng kỳ. Dự ước, 9 tháng đầu năm 2019, diện tích trồng rừng tập trung 8.485 ha, giảm 7,0% so với cùng kỳ; trồng phân tán 1,4 triệu cây, giảm 4,9% so cùng kỳ; diện tích rừng được chăm sóc 42,0 nghìn ha, bằng cùng kỳ năm trước... Khai thác lâm sản: Gỗ 498,7 nghìn m3, tăng 7,6% so với cùng kỳ; tre luồng 44,65 triệu cây, tăng 6,8%; nguyên liệu giấy 62,3 nghìn tấn, tăng 3,5% so với cùng kỳ.

Công tác bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng thường xuyên được quan tâm chỉ đạo, các ngành chức năng luôn phối hợp với các địa phương và ban quản lý dự án tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia bảo vệ và phát triển rừng. Chín tháng đầu năm nay trên địa bàn tỉnh không xảy ra cháy rừng, an ninh rừng được giữ vững.

1.3. Thuỷ sản: Chín tháng đầu năm 2019, thời tiết tương đối thuận lợi cho việc khai thác, đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản; mặt khác, ngư dân đã đầu tư nâng cấp, đóng mới, thay mới và cải hoán nhiều tàu thuyền có công suất lớn, phục vụ cho việc đánh bắt xa bờ; nên kết quả sản xuất thuỷ sản tăng so với cùng kỳ. Sản lượng thủy sản 9 tháng đầu năm 2019 ước đạt 135 nghìn tấn, tăng 6,9% so với cùng kỳ; trong đó, sản lượng nuôi trồng 44 nghìn tấn tăng 9,7%; sản lượng khai thác 91 nghìn tấn, tăng 5,6%.

Toàn tỉnh hiện có 7.205 tàu thuyền có động cơ khai thác hải sản biển, với tổng công suất 669 nghìn CV; so với cùng kỳ tăng 0,1% về số tàu, tăng 15,5% về công suất; trong đó, tàu xa bờ (từ 90 CV trở lên) có 1.816 tàu, với tổng công suất 490,2 nghìn CV; so với cùng kỳ tăng 9,5% về số tàu, tăng 19,5% về công suất.

Trong tháng 3/2019, nhiều diện tích ngao giống, ngao thương phẩm tại các huyện Hậu Lộc và Nga Sơn bị chết, gây thiệt hại cho ngành thủy sản và người nuôi. Ngay sau khi xuất hiện hiện tượng trên, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tiến hành kiểm tra, lấy mẫu xét nghiệm. Kết quả phân tích cho thấy ngao giống chết tại huyện Nga Sơn là do sâu biển (hay còn gọi là rết biển) có tên khoa học là Chloeia.sp gây ra; ngao nuôi bị chết tại huyện Hậu Lộc do mật độ nuôi vượt quá mức cho phép và điều kiện môi trường biến động đột ngột. Sau khi có kết luận cụ thể về nguyên nhân ngao chết, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã chỉ đạo các huyện có diện tích nuôi ngao và cơ quan chức năng thực hiện tốt công tác quản lý vùng nuôi theo quy trình kỹ thuật và triển khai các biện pháp khắc phục.

2. Sản xuất công nghiệp: Chín tháng đầu năm 2019, ngành công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng cao chủ yếu nhờ vào sự đóng góp của Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn; bên cạnh đó, sản lượng sản xuất các sản phẩm chủ lực như: xi măng, thuốc lá, đường kết tinh, bia, quần áo may sẵn, giày dép các loại tăng khá so với cùng kỳ.

Chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành ước tính tháng 9/2019 tăng 2,39% so với tháng trước, tăng 16,62% so với tháng cùng kỳ; trong đó, công nghiệp khai khoáng tăng 8,94% so với tháng trước, giảm 16,33% so với tháng cùng kỳ; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,29% so với tháng trước, tăng 13,07% so với tháng cùng kỳ; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 3,45% so với tháng trước, tăng 89,64% so với tháng cùng kỳ; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,93% so với tháng trước, tăng 2,24% so với tháng cùng kỳ. Tính chung 9 tháng đầu năm 2019, chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành tăng 28,44% so với cùng kỳ (quý I tăng 39,57%, quý II tăng 33,06%, quý III tăng 15,36%); trong đó, công nghiệp khai khoáng giảm 2,84% (quý I tăng 0,04%, quý II tăng 0,64%, quý III giảm 9,85%); công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 29,90% (quý I tăng 44,33%, quý II tăng 36,08%, quý III tăng 13,31%); sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 14,77% (quý I giảm 4,47%, quý II tăng 5,69%, quý III tăng 49,01%); cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,22% so cùng kỳ (quý I tăng 5,95%, quý II tăng 4,50%, quý III tăng 2,20%).

Trong toàn ngành công nghiệp, các ngành có chỉ số sản xuất tính chung 9 tháng đầu năm 2019 tăng so với cùng kỳ gồm: Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế gấp 2,78 lần; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 68,63%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 40,25%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí tăng 14,77%; hoạt động thu gom, xử lý và tiêu huỷ rác thải, tái chế phế liệu tăng 11,25%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 9,69%; sản xuất trang phục tăng 2,78%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 2,01%;... Các ngành có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ gồm: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 57,30%; sản xuất xe có động cơ giảm 31,73%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác giảm 15,14%; công nghiệp dệt giảm 13,02%; sản xuất đồ uống giảm 4,78%; khai khoáng khác giảm 3,44%;...

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9/2019 dự kiến giảm 5,76% so với tháng trước, giảm 3,91% so với tháng cùng kỳ. Tính chung 9 tháng đầu năm 2019, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 1,36% so với cùng kỳ.

Chỉ số tồn kho của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9/2019 dự kiến tăng 6,62% so với tháng trước; tăng 43,60% so với tháng cùng kỳ năm trước.

Số lao động làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tháng 9 năm 2019 tăng 1,84% so với tháng trước; tăng 8,42% so với tháng cùng kỳ năm trước; trong đó, khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 0,18% so với tháng trước; giảm 0,49% so với tháng cùng kỳ; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 0,44% so với tháng trước; tăng 3,33% so với tháng cùng kỳ; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 2,57% so với tháng trước; tăng 11,45% so với tháng cùng kỳ. Tính chung 9 tháng đầu năm 2019,sốlao độnglàm việctrong các doanh nghiệp công nghiệp tăng 10,19% so với cùng kỳ; trong đó, khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 0,42%; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 3,18%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 14,27% so với cùng kỳ năm trước.

3. Hoạt động của doanh nghiệp: Phát triển doanh nghiệp tiếp tục được quan tâm và đạt kết quả tích cực, tính từ đầu năm đến ngày 16/9/2019, thành lập mới 1.846 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký 15.909 tỷ đồng; so với cùng kỳ năm 2018, tăng 1,3% về số doanh nghiệp và tăng 24,0% về vốn đăng ký. Trong 9 tháng đầu năm 2019, số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn quay trở lại hoạt động tăng 65,% so với cùng kỳ năm trước.

4. Đầu tư: Kế hoạch vốn đầu tư công năm 2019 từ nguồn cân đối ngân sách tỉnh, vốn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương và trái phiếu Chính phủ do tỉnh quản lý đã được Chủ tịch UBND tỉnh giao chi tiết cho các chủ đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư giải ngân và đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án. Chín tháng đầu năm 2019, các chủ đầu tư và nhà thầu tập trung đẩy nhanh tiến độ thi công các dự án trọng điểm, công trình chuyển tiếp. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện theo giá hiện hành 9 tháng đầu năm 2019 ước đạt 69.148 tỷ đồng, tăng 12,7% so với cùng kỳ (quý I tăng 14,3%, quý II tăng 8,8%, quý III tăng 15,4%); trong đó, vốn ngân sách Nhà nước 9.017 tỷ đồng, tăng 22,0%; vốn trái phiếu Chính phủ 503 tỷ đồng, giảm 43,2%; vốn tín dụng đầu tư theo kế hoạch Nhà nước 3.713 tỷ đồng, tăng 6,8%; vốn vay từ các nguồn khác (của khu vực Nhà nước) 2.633 tỷ đồng, tăng 3,5%; vốn đầu tư của dân cư và tư nhân 35.938 tỷ đồng, tăng 6,7%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 14.356 tỷ đồng, tăng 35,9% so với cùng kỳ năm 2018.

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước địa phương 9 tháng đầu năm 2019 ước đạt 5.567,2 tỷ đồng, bằng 71,3% kế hoạch năm và tăng 23,2% so với cùng kỳ (quý I tăng 15,2%, quý II tăng 25,9%, quý III tăng 27,6%), bao gồm: Vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh 2.497,6 tỷ đồng, bằng 75,5% kế hoạch năm và tăng 16,8% so với cùng kỳ (quý I tăng 7,8%, quý II tăng 23,2%, quý III tăng 18,2%); vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện 1.613,5 tỷ đồng, bằng 65,2% kế hoạch năm và tăng 27,6% so với cùng kỳ (quý I tăng 19,4%, quý II tăng 28,4%, quý III tăng 34,3%); vốn ngân sách Nhà nước cấp xã 1.456,2 tỷ đồng, bằng 72,0% kế hoạch năm và tăng 30,4% so với cùng kỳ (quý I tăng 24,2%, quý II tăng 27,9%, quý III tăng 38,5%).

Các dự án lớn khởi công đầu tư xây dựng trong 9 tháng đầu năm 2019 gồm: Dự án Chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa tập trung quy mô công nghiệp tại xã Yên Mỹ và xã Công Bình, huyện Nông Cống của Công ty TNHH 2 thành viên ứng dụng công nghệ cao nông nghiệp và thực phẩm sữa Yên Mỹ, tổng vốn đầu tư khoảng 3.800 tỷ đồng; Dự án Dây chuyền 3 Nhà máy Xi măng Long Sơn của Công ty TNHH Long Sơn, tổng vốn đầu tư khoảng 3.400 tỷ đồng; Dự án Đường từ trung tâm thành phố Thanh Hóa nối với đường giao thông từ Cảng Hàng không Thọ Xuân đi Khu kinh tế Nghi Sơn (giai đoạn 1), tổng vốn đầu tư 499 tỷ đồng.

Các dự án lớn hoàn thành đầu tư xây dựng đi vào hoạt động trong 9 tháng đầu năm 2019 gồm: Bệnh viện Ung Bướu tỉnh Thanh Hóa, tổng vốn đầu tư 700 tỷ đồng; Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Hợp Lực (khu vực Nghi Sơn - Tĩnh Gia), tổng vốn đầu tư 700 tỷ đồng; Nhà máy luyện cán thép Nghi Sơn (giai đoạn 1), tổng mức đầu tư 4.950 tỷ đồng; khai trương tuyến dịch vụ vận tải container quốc tế và đón chuyến tàu container quốc tế đầu tiên đến Cảng tổng hợp Quốc tế Nghi Sơn.

5. Thu, chi ngân sách Nhà nước: Chín tháng đầu năm 2019, tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 19.727 tỷ đồng, đạt 74,0% dự toán (chín tháng đầu năm 2018 đạt 61,4%), tăng 47,2% so cùng kỳ; trong đó, thu nội địa 12.202 tỷ đồng, đạt 78,5% dự toán, tăng 28,8% so cùng kỳ. Các khoản thu chủ yếu tăng so cùng kỳ như: Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gấp 2,6 lần; thu từ doanh nghiệp Nhà nước Trung ương tăng 42,0%; thu thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh tăng 10,3%; lệ phí trước bạ tăng 20,2%; thu phí và lệ phí tăng 14,7%; thu khác ngân sách tăng 5,1% so với cùng kỳ. Riêng thu từ tiền sử dụng đất tăng 6,5%; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu tăng 91,4% so cùng kỳ.

Chi ngân sách địa phương 9 tháng đầu năm 2019 ước đạt 22.595 tỷ đồng, đạt 74,6% dự toán, tăng 4,3% so cùng kỳ; trong đó, chi đầu tư phát triển tăng 18,5%; chi thường xuyên tăng 5,0%; chi khác giảm 18,0% so với cùng kỳ.

6. Tín dụng, ngân hàng: Ngân hàng Nhà nước - Chi nhánh Thanh Hóa triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách có liên quan đến hoạt động của các ngân hàng theo sự chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước. Huy động vốn của các tổ chức tín dụng (không bao gồm Ngân hàng Phát triển) dự kiến đến 30/9/2019 đạt 94.678 tỷ đồng, tăng 14,0% so với tháng 12/2018. Tổng dư nợ (không bao gồm Ngân hàng Phát triển) dự kiến đến 30/9/2019 đạt 110.770 tỷ đồng, tăng 7,0% so với tháng 12/2018. Cơ cấu dư nợ khối các ngân hàng thương mại Nhà nước chiếm 65,8% tổng dư nợ; khối các ngân hàng thương mại cổ phần chiếm 19,5%; Ngân hàng Chính sách xã hội chiếm 8,4%; tổ chức tài chính vi mô chiếm 0,5%; Ngân hàng Hợp tác xã và hệ thống quỹ tín dụng nhân dân chiếm 5,8%.

7. Thương mại, giá cả, vận tải và du lịch

7.1. Doanh thu bán lẻ hàng hóa: Tháng 9, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 7.688,4 tỷ đồng, tăng 2,1% so với tháng trước, tăng 16,0% so với tháng cùng kỳ. Chín tháng đầu năm 2019, doanh thu bán lẻ hàng hoá ước đạt 68.289 tỷ đồng, tăng 15,0% so với cùng kỳ (quý I tăng 12,9%, quý II tăng 16,2%, quý III tăng 16,2%); trong đó, lương thực, thực phẩm tăng 18,3% (quý I tăng 23,2%, quý II tăng 11,7%, quý III tăng 20,0%); may mặc tăng 11,6% (quý I tăng 13,0%, quý II tăng 18,3%, quý III tăng 3,2%); đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình tăng 16,7% (quý I tăng 5,8%, quý II tăng 25,8%, quý III tăng 19,6%); vật phẩm văn hoá, giáo dục tăng 24,5% (quý I tăng 6,3%, quý II tăng 22,8%, quý III tăng 46,4%); phương tiện đi lại tăng 3,7% (quý I tăng 2,3%, quý II tăng 6,6%, quý III tăng 5,8%); xăng dầu tăng 11,7% (quý I tăng 10,5%, quý II tăng 15,9%, quý III tăng 8,7%)...

Công tác quản lý thị trường, kiểm tra, kiểm soát thị trường luôn được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo. Cục Quản lý thị trường phối hợp với các đơn vị liên quan tập trung kiểm tra, kiểm soát chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả; phối hợp với các địa phương có diễn ra hoạt động du lịch biển như Sầm Sơn, Hải Tiến, tổ chức tuyên truyền trên các phương tiện loa phát thanh công cộng, tổ chức ký cam kết đối với tất cả các cơ sở sản xuất, kinh doanh phục vụ du lịch hè biển năm 2019 về việc thực hiện các quy định của Nhà nước trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại dịch vụ nhất là dịp nghỉ lễ. Kiểm tra các cơ sở sản xuất kinh doanh trong việc tuân thủ quy định về giá, chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả; ngăn chặn, xử lý nghiêm các hành vi kinh doanh hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; các hành vi không niêm yết giá, bán hàng, thu tiền các dịch vụ cao hơn giá niêm yết; đặc biệt là việc nâng giá, ép giá. Tháng 8/2019, lực lượng Quản lý thị trường kiểm tra 305 vụ, xử lý 253 vụ, tổng số tiền thu nộp phạt là 708,7 triệu đồng.

7.2. Hoạt động lưu trú và ăn uống: Tháng 9/2019, doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống ước đạt 942 tỷ đồng, giảm 3,1% so với tháng trước và tăng 11,2% so với tháng cùng kỳ; trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú giảm 8,2% so với tháng trước và tăng 7,8% so với tháng cùng kỳ, doanh thu ăn uống giảm 1,9% so với tháng trước và tăng 12,0% so với tháng cùng kỳ; doanh thu du lịch lữ hành đạt 10,5 tỷ đồng, giảm 6,8% so với tháng trước và tăng 17,2% so với tháng cùng kỳ; doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác 410,1 tỷ đồng, tăng 2,5% so với tháng trước và tăng 11,6% so với tháng cùng kỳ.

Chín tháng đầu năm 2019, doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống ước đạt 8.647,7 tỷ đồng, tăng 15,7% so với cùng kỳ (quý I tăng 15,5%, quý II tăng 16,1%, quý III tăng 15,6%); trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú tăng 10,6% (quý I tăng 10,0%, quý II tăng 10,3%, quý III tăng 11,3%), doanh thu ăn uống tăng 17,1% (quý I tăng 16,9%, quý II tăng 17,6%, quý III tăng 16,7%); doanh thu du lịch lữ hành 99,7 tỷ đồng, tăng 15,1% (quý I tăng 12,6%, quý II tăng 15,0%, quý III tăng 17,4%); doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác 3.569,9 tỷ đồng, tăng 10,1% (quý I tăng 9,6%, quý II tăng 10,0%, quý III tăng 10,6%).

7.3. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ: Tháng 9/2019, chỉ số giá tiêu dùng tăng 0,37% so với tháng trước. Hai nhóm hàng hóa có chỉ số giá giảm là: nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD giảm 0,49%, nhóm giao thông giảm 0,97%. Ba nhóm hàng hóa giá cả ổn định chỉ số giá không tăng là: nhóm đồ uống và thuốc lá; nhóm bưu chính viễn thông và nhóm văn hóa, giải trí và du lịch. Sáu nhóm hàng hóa có chỉ số giá tăng là: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,11% (lương thực tăng 2,04%, thực phẩm tăng 1,25%); nhóm may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,05%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,04%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,20%; nhóm giáo dục tăng 0,68%; nhóm đồ dùng và dịch vụ khác tăng 0,78%. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 năm 2019 tăng 2,08 so với tháng 12 năm 2018 và tăng 1,77% so với tháng cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng đầu năm 2019 tăng 2,10% so với bình quân cùng kỳ (quý I tăng 2,58%, quý II tăng 2,22%, quý III tăng 1,48%), một số nhóm hàng hóa có chỉ số giá tăng cao so cùng kỳ là: nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,63% (thực phẩm tăng 3,72%, lương thực tăng 1,27%); nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 3,94%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD tăng 2,09%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 3,02% (dịch vụ y tế tăng 4,17%); nhóm giáo dục tăng 3,32% (dịch vụ giáo dục tăng từ 3,34%)...; riêng nhóm giao thông giảm 1,21% (do tác động của các lần điều chỉnh giảm giá xăng, dầu trong 9 tháng đầu năm 2019). Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 9 tháng đầu năm nay tăng cao hơn cùng kỳ năm 2015, 2016; nhưng thấp hơn cùng kỳ năm 2017, 2018 (9 tháng đầu năm 2015 tăng 0,51%; 9 tháng đầu năm 2016 tăng 1,98%; 9 tháng đầu năm 2017 tăng 2,70%; 9 tháng đầu năm 2018 tăng 3,89%).

Chỉ số giá vàng tháng 9/2019 tăng 3,43% so với tháng trước, tăng 18,30% so với tháng 12/2018, tăng 20,54% so với tháng cùng kỳ năm trước; bình quân 9 tháng đầu năm 2019 tăng 4,71% so với bình quân cùng kỳ năm 2018. Chỉ số giá đô la Mỹ giảm 0,04% tháng trước, giảm 0,40% so với tháng 12/2018, giảm 0,30% so với tháng cùng kỳ năm trước; bình quân 9 tháng đầu năm 2019 tăng 1,58% so với bình quân cùng kỳ năm 2018.

7.4. Vận tải hành khách và hàng hóa: Tháng 9, doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 904,3 tỷ đồng, tăng 1,3% so với tháng trước, tăng 10,9% so với tháng cùng kỳ; trong đó, doanh thu vận tải hành khách 326,2 tỷ đồng, tăng 2,5% so với tháng trước, tăng 14,9% so với tháng cùng kỳ; doanh thu vận tải hàng hóa 530,5 tỷ đồng, tăng 0,5% so với tháng trước, tăng 7,4% so với tháng cùng kỳ. Hàng hóa vận chuyển đạt 4,8 triệu tấn, tăng 1,1% so với tháng trước, tăng 3,5% so với tháng cùng kỳ; hàng hóa luân chuyển 226,1 triệu tấn.km tăng 0,4% so với tháng trước, tăng 0,5% so với tháng cùng kỳ; hành khách vận chuyển đạt 4,3 triệu người, tăng 1,5% so với tháng trước, tăng 16,1% so với tháng cùng kỳ; hành khách luân chuyển đạt 260,5 triệu người.km, tăng 1,6% so với tháng trước, tăng 17,5% so với tháng cùng kỳ

Chín tháng đầu năm 2019, doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 7.962,3 tỷ đồng, tăng 11,5% so với cùng kỳ (quý I tăng 11,6%, quý II tăng 11,8%, quý III tăng 11,2%); trong đó, doanh thu vận tải hành khách 2.899,1 tỷ đồng, tăng 19,9% (quý I tăng 28,7%, quý II tăng 19,0%, quý III tăng 13,1%); doanh thu vận tải hàng hóa 4.658,2 tỷ đồng, tăng 5,9% (quý I tăng 2,7%, quý II tăng 6,3%, quý III tăng 8,9%). Vận chuyển hàng hoá đạt 43 triệu tấn, luân chuyển hàng hoá đạt 2.043,2 triệu tấn.km, tăng 4,2% về hàng hóa vận chuyển (quý I tăng 5,2%, quý II tăng 3,8%, quý III tăng 3,7%), tăng 1,5% về hàng hóa luân chuyển so với cùng kỳ (quý I tăng 1,8%, quý II tăng 1,6%, quý III tăng 1,0%); vận chuyển hành khách 38,2 triệu người, luân chuyển hành khách 2.278,9 triệu người.km, tăng 17,1% về hành khách vận chuyển (quý I tăng 19,0%, quý II tăng 16,4%, quý III tăng 16,2%), tăng 18,0% về hành khách luân chuyển so với cùng kỳ (quý I tăng 20,2%, quý II tăng 16,7%, quý III tăng 17,4%).

8. Một số tình hình xã hội

8.1. Đời sống dân cư và an sinh xã hội: Chín tháng đầu năm 2019, nhìn chung đời sống dân cư trên địa bàn tỉnh có nhiều cải thiện về mặt tinh thần cũng như về vật chất; văn hoá, giáo dục phát triển toàn diện; các chính sách xã hội được chú trọng; an ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội đảm bảo. Tuy nhiên, do thời tiết diễn biến thất thường, mưa trái mùa, nắng nóng kéo dài, thiên tai, dịch bệnh xảy ra trên cây trồng, vật nuôi… đã ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của một bộ phận dân cư. Tính chung 9 tháng đầu năm nay, toàn tỉnh có 3.219 lượt hộ tương ứng với 12.445 lượt nhân khẩu thiếu đói, so với cùng kỳ tăng 53,9% về số hộ và gấp 3,03 lần về số nhân khẩu thiếu đói; tỷ lệ hộ thiếu đói bình quân 9 tháng đầu năm 0,33%, tăng 0,31% so với cùng kỳ năm 2018.

Công tác an sinh, phúc lợi xã hội được quan tâm; các chế độ, chính sách đối với người có công, đối tượng bảo trợ xã hội, người nghèo và công nhân lao động được triển khai thực hiện chu đáo, kịp thời, nhất là trong các dịp lễ Tết, kỷ niệm... Thực hiện trợ cấp thường xuyên cho trên 203,6 nghìn đối tượng bảo trợ xã hội; hỗ trợ trên 1,1 nghìn tấn gạo cho gần 18,1 nghìn hộ dân trong dịp tết Nguyên đán và thời kỳ giáp hạt; thực hiện tốt các hoạt động tri ân người có công với cách mạng nhân dịp tết Nguyên đán Kỷ Hợi năm 2019 và kỷ niệm 72 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ (trong đợt cao điểm tri ân nhân ngày Thương binh - Liệt sĩ đã có 98.037 người có công với cách mạng được nhận quà của Chủ tịch nước và quà của tỉnh, tổng kinh phí thực hiện trên 34,7 tỷ đồng). Quan tâm xử lý, giải quyết kịp thời các chế độ, chính sách đối với người có công với cách mạng và thân nhân theo đúng quy định. Bên cạnh đó, triển khai thực hiện các hoạt động khắc phục hậu quả thiên tai, sớm ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân bị thiệt hại do ảnh hưởng của mưa bão, lũ lụt; tích cực theo dõi, rà soát, nắm chắc tình hình về nhu cầu hỗ trợ lương thực của người dân để hỗ trợ hoặc tham mưu phương án hỗ trợ kịp thời, đảm bảo không để người dân nào bị đói, bị khát hoặc không có nơi cư trú.

8.2. Lao động, việc làm: Theo báo cáo của Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, trong 9 tháng đầu năm 2019, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm cho 59,6 nghìn lao động (đạt 87,7% kế hoạch năm, tăng 13,6% so với cùng kỳ); trong đó, đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài 7,3 nghìn lao động (đạt 73,0% kế hoạch năm, tăng 5,1% so với cùng kỳ. Công tác đào tạo nghề được quan tâm, chín tháng đầu năm, đã tuyển mới và đào tạo nghề cho 71,2 nghìn người, đạt 82,1% kế hoạch, tăng 16,7% so với cùng kỳ; trong đó, trình độ cao đẳng 1,9 nghìn người, trung cấp 5 nghìn người, sơ cấp và dưới 3 tháng 64,3 nghìn người.

8.3. Y tế: Trong chín tháng đầu năm nay, ngành Y tế đã tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; công tác y tế dự phòng được tăng cường, vật tư, hoá chất được cung cấp đầy đủ cho các đơn vị để chủ động phòng, chống, khoanh vùng và có biện pháp xử lý, chữa trị kịp thời; trên địa bàn tỉnh không có dịch bệnh lớn xảy ra. Tuy nhiên, từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh vẫn phát sinh một số bệnh thông thường: Đến ngày 08/9/2019 toàn tỉnh ghi nhận 275 ca sốt xuất huyết, 396 ca SPB nghi sởi, 347 ca tay chân miệng, 01 ca dại (tử vong 01 người), 144 ca ho gà, 04 ca uốn ván, 16 ca viêm não vi rút khác, 66 ca viêm gan vi rút B; phát hiện mới 12 bệnh nhân mắc sốt rét.

Công tác phòng chống HIV/AIDS được đẩy mạnh; lũy kế số người nhiễm HIV/AIDS được phát hiện đến 30/8/2019 là 8.308 người, trong đó số người nhiễm HIV còn sống, được quản lý là 4.173 người. Hiện có 3.790 người nhiễm HIV/AIDS đang được điều trị bằng thuốc kháng virus ARV tại 34 cơ sở điều trị. Toàn tỉnh đã triển khai cung cấp dịch vụ điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone cho 27 cơ sở điều trị và 17 điểm cấp phát thuốc tại 24 huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh. Số bệnh nhân hiện đang điều trị bằng thuốc Methadone là 2.569 bệnh nhân.

Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được chú trọng, ngành Y tế tham mưu cho Ban chỉ đạo Quản lý về vệ sinh an toàn thực phẩm tỉnh tổ chức Lễ phát động Tháng hành động vì an toàn thực phẩm năm 2019 quy mô cấp tỉnh với chủ đề “Nói không với thực phẩm giả, thực phẩm kém chất lượng; bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”. Chín tháng đầu năm, đã tổ chức kiểm tra 574 cơ sở thực phẩm, xử lý 48/48 cơ sở vi phạm, phạt tiền 299,5 triệu đồng.

8.4. Giáo dục, đào tạo: Sáng ngày 05/9, gần 851 nghìn học sinh các cấp học phổ thông trên địa bàn toàn tỉnh bước vào khai giảng năm học mới 2019 - 2020. So với các năm học trước, quy mô học sinh các cấp học đều tăng, trong đó cấp tiểu học tăng nhiều nhất với khoảng hơn 26 nghìn học sinh. Để chuẩn bị cho cán bộ, giáo viên và học sinh bước vào năm học mới với tâm thế tốt nhất, Sở Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo phòng Giáo dục và Đào tạo các huyện, thị xã, thành phố, hiệu trưởng các trường chuẩn bị tốt cơ sở vật chất, vệ sinh trường lớp, tạo cảnh quan khu vực nhà trường sạch, đẹp, văn minh phục vụ năm học mới.

Năm học 2018 - 2019, ngành Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa đã hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học, kết quả giáo dục được nâng lên. Kỳ thi tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2018 diễn ra an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế; kết quả có 31.457/34.049 thí sinh đỗ tốt nghiệp THPT, đạt tỷ lệ 92,39% (hệ THPT đạt tỷ lệ 94,39%; hệ GDTX đạt tỷ lệ 64,04%); toàn tỉnh Thanh Hóa có 35 bài thi đạt điểm 10; 107 học sinh đạt 27 điểm trở lên ở 3 môn xét tuyển đại học, cao đẳng. Chất lượng giáo dục mũi nhọn tiếp tục duy trì và có bước đột phá cả về số lượng và chất lượng; kết quả các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, khu vực và quốc tế, Thanh Hóa liên tục trong tốp đầu của cả nước. Trong kỳ thi học sinh giỏi THPT Quốc gia, Thanh Hóa đạt 65 giải, trong đó có 7 giải nhất; tham gia dự thi Olympic quốc tế, đạt 04 huy chương (01 huy chương Vàng môn Vật lý; 01 huy chương Vàng môn Hóa học; 01 huy chương Vàng môn Tin học và 01 huy chương Bạc môn Sinh học); dự thi khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đạt 01 huy chương Đồng môn Vật lý. Kết quả trên đưa học sinh Thanh Hóa dẫn đầu toàn quốc khi tham gia các kỳ thi Olympic quốc tế năm 2019 và là năm thứ 4 liên tiếp, Thanh Hóa có học sinh đoạt huy chương tại các kỳ thi Olympic quốc tế và khu vực.

Tính từ đầu năm đến đầu tháng 9/2018, toàn tỉnh có 1.439/2.076 trường đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 69,32%; trong đó, Mầm non 446/681 trường, đạt tỷ lệ 65,5%; tiểu học 550/650 trường, đạt tỷ lệ 84,62%; trung học cơ sở 390/590 trường; đạt tỷ lệ 66,1%; tiểu học - THCS 20/52 trường, đạt tỷ lệ 37,25%; trung học phổ thông 33/103 trường, đạt tỷ lệ 32,04%.

Năm 2019, Trường Đại học Hồng Đức tuyển sinh đào tạo 31 ngành Đại học, 5 ngành Cao đẳng với tổng số 1.530 chỉ tiêu; Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch là 1.100 chỉ tiêu tuyển sinh ở 17 chuyên ngành; CaoY tế Thanh Hóa là 920 chỉ tiêu ở 8 chuyên ngành đạo. Đến nay, các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh đã kết thúc xét tuyển. Đại học Hồng Đức xét tuyển được 900 thí sinh, đạt 58,82% so với kế hoạch, giảm 25% so với năm trước; Đại học Văn hoá, Thể thao và Du lịch xét tuyển được 700 thí sinh, đạt 63,36% so với kế hoạch, tăng so với cùng kỳ năm trước 395 thí sinh (1,3 lần); Cao đẳng Y tế Thanh Hoá xét tuyển được 370 thí sinh, đạt 40,2% so với kế hoạch, giảm 164 thí sinh so với năm trước.

8.5. Văn hoá - Thể dục thể thao: Chín tháng đầu năm 2019, ngành Văn hoá thông tin, Truyền thông đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền các chủ chương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các sự kiện chính trị, các ngày kỷ niệm, lễ, tết và các nhiệm vụ chính trị của địa phương; tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao chào mừng các ngày lễ, kỷ niệm lớn của đất nước và các sự kiện chính trị của địa phương, nổi bật như: các hoạt động mừng Đảng - mừng Xuân Kỷ Hợi 2019; Chương trình nghệ thuật phục vụ Lễ kỷ niệm 990 năm Thanh Hóa; tham gia Liên hoan Tuồng và Dân ca kịch toàn quốc - 2019; Hội thảo khoa học, trưng bày chuyên đề Bác Hồ với Thanh Hóa - Thanh Hóa 50 năm thực hiện Di chúc của “Chủ tịch Hồ Chí Minh"; phim tuyên truyền kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969 - 2019) và 50 năm ngày mất của Người (02/9/1969 - 02/9/2019)..., góp phần tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong các tầng lớp nhân dân, giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống của văn hóa Việt Nam, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở tiếp tục được đẩy mạnh, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" tiếp tục được quan tâm thực hiện, trong đó chú trọng đến mục tiêu nâng cao chất lượng phong trào và lồng ghép với phong trào xây dựng nông thôn mới, xây dựng nếp sống văn minh đô thi. Tính đến tháng 9/2019, toàn tỉnh có 3.257 làng, bản, khu phố đăng ký xây dựng văn hóa, vượt 22,6% kế hoạch; 221 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đăng ký xây dựng đạt chuẩn văn hóa, vượt 67,4% kế hoạch; 41 xã đăng ký xây dựng đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới, gấp 2,05 lần kế hoạch; 04 phường đăng ký đạt chuẩn văn minh đô thị, vượt 33,3% kế hoạch năm 2019.

Phong trào thể dục thể thao quần chúngtiếp tục được duy trì; đẩy mạnh và nâng cao chất lượng cuộc vận động "Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại". Chín tháng đầu năm 2019, tổ chức thành công 11 giải thi đấu thể thao và sự kiện TDTT quần chúng cấp tỉnh; 130 giải thể thao cấp huyện, thị xã, thành phố và 1.035 giải thể thao cấp xã, phường, thị trấn; số người tham gia tập luyện thể dục, thể thao thường xuyên 1.510,6 nghìn người, đạt tỷ lệ 41,5% dân số; 279 nghìn hộ gia đình thể thao, đạt 29% số hộ; 100% trường học đảm bảo chương trình giáo dục thể chất; 100% cán bộ chiến sỹ, lực lượng vũ trang đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể.

Thể thao thành tích cao được tăng cường luyện tập, chuẩn bị tham gia thi đấu các giải quốc gia, quốc tế theo kế hoạch. Tổ chức thành công các giải thể thao thành tích cao và thể thao chuyên nghiệp, như: Giải súng hơi thanh thiếu niên toàn quốc năm 2019; Giải vô địch Cầu mây quốc gia năm 2019 tại thành phố Sầm Sơn, giải vô địch Muay toàn quốc 2019, giải vô địch Pencaksilat miền Bắc và bắc Trung Bộ 2019; giải Bơi - Lặn vô địch các CLB quốc gia khu vực I 2019; tham gia thi đấu các giải quốc tế: Boxing, Quần vợt, Pencaksilat, Taekwondo, Karate, Bơi, Lặn, Arnis (võ gậy),... Tính từ đầu năm đến nay, các đoàn thể thao Thanh Hóa thi đấu 79 giải quốc gia, quốc tế đạt 376 huy chương các loại, gồm 105 HCV, 118 HCB, 153 HCĐ. Đội tuyển U15 giành HCB Giải bóng đá U15 toàn quốc; Đội U17 giành chức vô địch Giải bóng đá U17 toàn quốc. Câu lạc bộ Bóng đá Thanh Hóa tham gia giải bóng đá vô địch quốc gia Wake-up 247 V.League 1 - 2019, sau 23 trận đấu, giành được 25 điểm, xếp thứ 13/14 đội.

8.6. Tai nạn giao thông: Công an giao thông, Thanh tra giao thông phối hợp với các ngành, các địa phương huy động lực lượng, phương tiện, triển khai đồng bộ các biện pháp công tác, bố trí lực lượng, tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm an toàn giao thông. Theo báo cáo của Ban An toàn giao thông tỉnh, 8 tháng đầu năm 2019, toàn tỉnh xảy ra 312 vụ tai nạn giao thông, làm 114 người chết và 287 người bị thương; so với cùng kỳ năm 2018, giảm 0,6% về số vụ, tăng 12,9% về số người chết và tăng 7,9% về số người bị thương.

Lực lượng cảnh sát giao thông, trật tự và cơ động đã tăng cường tuần tra, kiểm soát, ngăn chặn tình trạng đua xe trái phép, không đội mũ bảo hiểm, xe ô tô chạy quá tốc độ, xe khách chở quá số người qui định, kiểm tra trọng tải phương tiện. Chín tháng đầu năm 2019, cảnh sát giao thông đã phát hiện, xử lý, xử phạt 51.836 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, tạm giữ 7.551 phương tiện các loại, tổng số tiền phạt vi phạm 61.902 triệu đồng; thanh tra giao thông lập biên bản, xử lý, xử phạt 442 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, phạt vi phạm 4.532 triệu đồng.

8.7. Thiệt hại do thiên tai: Tính từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã xảy ra 11 đợt thiên tai, làm chết 13 người, mất tích 6 người, bị thương 8 người, thiệt hại về tài sản ước tính sơ bộ khoảng 1.485 tỷ đồng. Đặc biệt nghiêm trọng là đợt đợt thiên tai do ảnh hưởng của hoàn lưu bão số 3 kết hợp với hoạt động của dải hội tụ nhiệt đới, trong các ngày từ 30/7 đến 04/8 trên địa bàn tỉnh đã có mưa to đến rất to, cộng thêm nước lũ từ thượng nguồn đổ về, đã gây ra lũ ống, lũ quét, ngập lụt, sạt lở đất ở nhiều nơi, đặc biệt là tại bản Sa Ná, xã Na Mèo, huyện Quan Sơn và bản Pá Hộc, xã Nhi Sơn, huyện Mường Lát; làm 10 người chết, 6 người mất tích, 5 người bị thương; 409 hộ gia đình bị thiệt hại về nhà và ảnh hưởng đến chỗ ở; 263,98 ha lúa; 48,72 ha cây hàng năm; 20,9 ha hoa màu; 142,01 ha ao cá bị thiệt hại; 1.685 con gia súc; 6.740 con gia cầm bị chết, cuốn trôi; nhiều công trình giao thông, thủy lợi, trường học bị hư hỏng, thiệt hại ước tính ban đầu khoảng 822 tỷ đồng.

Phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái “Lá lành đùm lá rách”, với tinh thần “Nhường cơm sẻ áo”, đã có rất nhiều các cơ quan, đơn vị, các địa phương, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang, các nhà hảo tâm, cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân trong và ngoài tỉnh đã quyên góp tiền và vật chất để ủng hộ nhân dân vùng bị thiệt hại sớm vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống. Ngay sau mỗi đợt thiên tai xảy ra, các địa phương đã huy động lực lượng dân quân cùng với bà con nhân dân nhanh chóng khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra; lãnh đạo tỉnh và các địa phương bị thiệt hại đã trực tiếp xuống cơ sở động viên thăm hỏi, trao quà hỗ trợ và chỉ đạo chính quyền xã, thôn, bản khẩn trương giúp đỡ người dân khắc phục nhà cửa bị hư hại, sớm ổn định cuộc sống và sản xuất kinh doanh.

8.8. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy, nổ

- Môi trường: Tháng 8/2019, phát hiện 32 vụ vi phạm môi trường, xử lý phạt vi phạm 29 vụ (TP Thanh Hóa 8 vụ; Thọ Xuân, Nga Sơn, Thạch Thành mỗi địa phương 3 vụ; Triệu Sơn, Lang Chánh, Như Xuân, Cẩm Thủy, mỗi địa phương 2 vụ; TP Sầm Sơn, Yên Định, Bá Thước, Hậu Lộc mỗi địa phương 1 vụ); xử phạt hành chính 309,6 triệu đồng. Tính chung 8 tháng đầu năm 2019, toàn tỉnh xảy ra 127 vụ vi phạm môi trường, gấp 2,2 lần cùng kỳ, xử phạt hành chính 118 vụ, tổng số tiền phạt vi phạm 2.127 triệu đồng.

- Cháy, nổ: Tháng 8/2019, xảy 9 vụ cháy(TP Thanh Hóa 4 vụ; Triệu Sơn 2 vụ; TP Sầm Sơn, Hoằng Hóa, Thọ Xuân mỗi địa phương 1 vụ);thiệt hại 112 triệu đồng. Tính chung 8 tháng đầu năm 2019, toàn tỉnh xảy ra 92 vụ cháy và 1 vụ nổ, gấp 2,9 lần cùng kỳ, thiệt hại về tài sản 9.475 triệu đồng.

Khái quát lại, chín tháng đầu năm 2019, với sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp, các ngành; đi kèm với đó là những giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Mặt khác, các doanh nghiệp cùng toàn thể nhân dân trong tỉnh ra sức thi đua sản xuất lập thành tích chào mừng kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, của tỉnh; đặc biệt, trong tháng Năm đã tổ chức các hoạt động tiến tới kỷ niệm và Lễ kỷ niệm 990 năm Thanh Hóa (1029 - 2019) nhằm thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn; giáo dục, khơi dậy và động viên nhân dân phát huy lòng tự hào về truyền thống lịch sử - cách mạng, phấn đấu xây dựng Thanh Hóa sớm trở thành tỉnh kiểu mẫu, tỉnh công nghiệp; đây còn là dịp giới thiệu, quảng bá nét đẹp của vùng đất và con người xứ Thanh, tiềm năng thế mạnh về kinh tế - du lịch tới bạn bè, du khách trong và ngoài nước; nên kinh tế tiếp tục phát triển, nhiều chỉ tiêu thuộc các lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp, thương mại dịch vụ, vận tải,... tăng so với cùng kỳ. Tuy nhiên, sản xuất kinh doanh của một bộ phận doanh nghiệp còn gặp khó khăn, tiến độ thực hiện một số dự án trọng điểm chậm, đời sống một bộ phận dân cư còn gặp khó khăn, bệnh dịch tả lợn Châu Phi gây thiệt hại tương đối lớn cho ngành chăn nuôi của tỉnh; mưa, lũ do ảnh hưởng của bão số 3 tại một số địa phương trong tỉnh làm thiệt hại lớn về người và tài sản, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống của nhân dân; tai nạn giao thông so với cùng kỳ năm trước tuy giảm nhẹ về số vụ, nhưng tăng khá cao về số người chết và số người bị thương.

CỤC THỐNG KÊ THANH HÓA

Từ khóa bài viết:
0 bình luận
(Bấm vào đây để nhận mã)

CÔNG KHAI TIẾN ĐỘ GIẢI QUYẾT TTHC

CHI TIẾT

Truyền Hình Thiệu Tóan