Ý kiến thăm dò

Truy cập

Hôm nay:
1
Hôm qua:
0
Tuần này:
1
Tháng này:
0
Tất cả:
388426

Bản tin nội bộ Tháng 8 năm 2022

Đăng lúc: 31/08/2022 (GMT+7)
100%

Tài liệu dùng cho sinh hoạt chi bộ hằng tháng.

08-01.png

HƯỚNG DẪN - CHỈ ĐẠO

“TRÍCH” NGHỊ QUYẾT SỐ 10-NQ/HU NGÀY 17/6/2022 CỦA BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY“VỀ TĂNG CƯỜNG,NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG MA TÚY”

Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Nghị quyết số 10-NQ/HU ngày 17/6/2022 về “Tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống ma túy”, nội dung cơ bản như sau:

I. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU

1. Quan điểm

- Công tác phòng, chống và kiểm soát ma tuý phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của các cấp uỷ, sự quản lý thống nhất của chính quyền các cấp, sự tham gia của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó, lực lượng Công an nhân dân là nòng cốt.

- Kết hợp chặt chẽ giữa phòng và chống, chú trọng công tác cai nghiện tập trung và quản lý người nghiện ngoài xã hội không để người nghiện gây ra các vụ phạm tội.

- Xác định công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, thường xuyên, liên tục, lâu dài. Thường xuyên nắm tình hình và chỉ đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp được đề ra trong Chiến lược quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma tuý Việt Nam định hướng đến năm 2030.

2. Mục tiêu

- Triển khai đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các giải pháp phòng, chống ma túy và cai nghiện ma túy. Kiểm soát, làm giảm tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn theo 03 mục tiêu:chặn cung - giảm cầu - giảm tác hại.

- Nâng cao hiệu quả công tác cai nghiện và quản lý sau cai, làm giảm số người nghiện ma tuý mới. Quản lý chặt chẽ người nghiện ngoài xã hội, không để phát sinh tội phạm và các vấn đề phức tạp, góp phần xây dựng môi trường xã hội an toàn, lành mạnh.

- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các kiến thức phòng, chống ma túy với các hình thức, thời lượng và nội dung phù hợp. Phòng, chống và kiểm soát hiệu quả tội phạm và tệ nạn ma túy; đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả các vụ mua bán, tàng trữ, vận chuyển, tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma túy.

- Phấn đấu đến năm 2025 có ít nhất 20% xã, thị trấn giảm mức độ phức tạp về ma túy so với năm 2021, mỗi năm giảm 05% số người nghiện về ma túy có hồ sơ quản lý đưa ra khỏi diện, 100% người nghiện phải có hồ sơ quản lý và được tiếp cận dịch vụ tư vấn điều trị cai nghiện. Từ năm 2022 đến năm 2025 mỗi năm số vụ phát hiện, đấu tranh với tội phạm về ma túy tăng 10%, số vụ có tính chất nghiêm trọng trở lên tăng 5%, mỗi năm triệt xóa 50% số điểm hoạt động phạm tội về ma túy, không để hình thành các tụ điểm, điểm ma túy mới, hạn chế mức thấp nhất việc phát sinh người nghiện mới.

II. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP

1.Tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống ma tuý, trọng tâm là Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 16/8/2019 của Bộ Chính trị về tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phòng chống và kiểm soát ma tuý, Luật phòng chống ma túy năm 2021 và các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Phòng, chống ma túy; Đề án Nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2021 - 2025 (ban hành theo Quyết định số 272/QĐ-UBND ngày 21/01/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa).

2.Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, quyết liệt công tác phòng, chống ma túy và cai nghiện ma túy. Đưa nội dung lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống ma túy vào chương trình công tác thường xuyên của cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị và coi đây là một nhiệm vụ trọng tâm để tập trung thực hiện thường xuyên. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cơ sở, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác phòng, chống và cai nghiện ma túy và chịu trách nhiệm trước Ban Thường vụ Huyện ủy nếu để tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn, lĩnh vực quản lý diễn biến phức tạp, gây bức xúc trong Nhân dân.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiên quyết xử lý đối với cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống ma túy; xử lý nghiêm đối với cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.

3.Thường xuyên tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền phòng, chống ma túy, trọng tâm là công tác giáo dục, thuyết phục, chú trọng đổi mới, đa dạng nội dung, hình thức tuyên truyền. Lấy gia đình, dòng họ, cơ quan, trường học, thôn, tiểu khu, xã, thị trấn... làm cơ sở nòng cốt để tuyên truyền, giáo dục, phòng ngừa tội phạm và tệ nạn ma túy.

4.Đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, lồng ghép công tác phòng, chống ma túy với các cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới; chuyển hóa, xây dựng địa bàn có ma túy thành xã, thị trấn lành mạnh, không có tệ nạn ma túy. Xây dựng và nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến về phòng, chống ma túy; kịp thời động viên, khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác đấu tranh phòng, chống ma tuý và cai nghiện ma túy. Quan tâm chế độ chính sách đối với cán bộ làm công tác chuyên trách, bán chuyên trách và những người không hưởng lương từ ngân sách nhà nước tham gia công tác phòng, chống ma túy và cai nghiện ma túy, nhất là cấp xã, thị trấn.

5.Thường xuyên chỉ đạo duy trì tấn công, trấn áp tội phạm về ma túy, triệt xóa các điểm phức tạp về mà túy; tập trung đấu tranh, ngăn chặn tình trạng mua bán, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, nhất là ma túy tổng hợp từ các huyện, tỉnh thành khác đến địa bàn. Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với tội phạm về ma túy, đảm bảo nghiêm minh, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm. Phát hiện ngăn chặn kịp thời có hiệu quả, không để xảy ra việc trồng cây có chứa chất ma túy trên địa bàn.

6.Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện; trọng tâm là công tác xác định tình trạng nghiện, vận dụng linh hoạt các giải pháp nâng cao hiệu quả biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, gắn với công tác cai nghiện tự nguyện tại gia đình, cộng đồng với cai nghiện tại cơ sở cai nghiện công lập. Áp dụng triệt để biện pháp điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế Methadone nhằm giảm nguồn cầu vào địa bàn; quan tâm hỗ trợ người nghiện ma túy sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng bền vững, giảm tỉ lệ tái nghiện.

7.Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với công tác phòng, chống ma túy và cai nghiện ma túy. Kiểm soát chặt chẽ các loại tiền chất ma túy, chất gây nghiện, chất hướng thần. Chỉ đạo cơ quan chức năng xây dựng các kế hoạch để thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp phòng, chống ma tuý trên địa bàn huyện. Kịp thời củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng bộ máy, đội ngũ cán bộ chuyên trách phòng, chống ma túy, Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội, phòng chống AIDS và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc các cấp.

8.Đảng ủy Công an huyện, Chi bộ đảng Viện kiểm sát nhân dân huyện, Tòa án nhân dân huyện chỉ đạo tăng cường phối hợp trong công tác lập hồ sơ xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; phát hiện, bắt giữ, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án các vụ án ma tuý; xét chọn án điểm; hạn chế việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, xét giảm án đối với tội phạm liên quan đến ma túy.

9.Định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết công tác phòng, chống ma túy và cai nghiện ma túy, đánh giá đúng thực trạng tình hình, kết quả đạt được, rút ra những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm và đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống ma túy và cai nghiện ma túy trong thời gian tiếp theo. Có chính sách khuyến khích và kịp thời biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc, đồng thời nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến trong công tác phòng, chống ma túy, cai nghiện ma túy.

III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1.Các ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội huyện, Đảng ủy các xã, thị trấn tổ chức quán triệt, phổ biến sâu rộng nội dung của Nghị quyết này; đồng thời xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện tại địa phương, cơ quan, đơn vị.

2.Ban Tuyên giáo Huyện ủy xây dựng kế hoạch, hướng dẫn việc học tập, quán triệt nghị quyết và chỉ đạo, định hướng các cơ quan chức năng, các đơn vị trong khối tuyên truyền trên địa bàn huyện đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến Nghị quyết và kết quả thực hiện trên địa bàn huyện.

3.Ban Dân vận Huyện ủy chủ trì, phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội huyện đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và các tầng lớp Nhân dân trong huyện thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước đối với công tác phòng, chống ma túy.

4.Văn phòng Huyện ủy phối hợp với Đảng ủy Công an huyện, các ban của Huyện ủy và các đơn vị liên quan theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát, tổng hợp kết quả việc thực hiện Nghị quyết, báo cáo Ban Thường vụ Huyện ủy để chỉ đạo.

Ban Biên tập

08-02.png
TIN TỨC -
SỰ KIỆN NỔI BẬT

TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI, QUỐC PHÒNG - AN NINH, CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ THÁNG 8 NĂM 2022

Tình hình kinh tế - xã hội

- Sản xuất nông nghiệp:Lãnh đạo, chỉ đạo chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh bảo vệ cây trồng vụ Thu mùa năm 2022. Chỉ đạo các xã, thị trấn phát triển chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học, đảm bảo an toàn phòng dịch bệnh, đảm bảo nguồn cung thực phẩm.

- Công tác xây dựng nông thôn mới và sản phẩm OCOP:Tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện các tiêu chí xây dựng xã NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu. Làm việc với các công ty nước sạch trên địa bàn nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc triển khai và sử dụng nước sạch trong Nhân dân. Tổ chức đánh giá, chấm điểm sản phẩm OCOP cho 06 sản phẩm.

- Sản xuất công nghiệp - xây dựng và dịch vụ thương mại:Giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 248,8 tỷ đồng, tăng 15,5% CK. Chỉ đạo hoàn thiện Quy hoạch các Đô thị: Giang Quang, Phú Hưng, Đông Đô, Cụm công nghiệp Hậu Hiền, cụm công nghiệp Ngọc Vũ và cụm công nghiệp Vạn Hà số 2…

Trong tháng 8 thành lập mới 10 doanh nghiệp, nâng số doanh nghiệp thành lập mới từ đầu năm đến nay lên 49 doanh nghiệp, đạt 89% KH. Đến nay, vốn đầu tư công tỉnh ước giải ngân 24/102,1 tỷ đồng, đạt 24%; vốn đầu tư ngân sách huyện ước thực hiện giải ngân 158,1/369,7 tỷ đồng, đạt 43,4%; vốn đầu tư ngân sách xã ước thực hiện giải ngân 37,13/75 tỷ đồng, đạt 50%.

-Công tác thu, chi ngân sách và quản lý tài nguyên, môi trường:Thu ngân sách tháng 8 đạt 66,4 tỷ đồng, lũy kế 8 tháng 465,9 tỷ đồng, đạt 134% dự toán huyện giao; gấp 2,05 lần dự toán tỉnh giao. chi ngân sách địa phương cơ bản đáp ứng nhu cầu thực hiện nhiệm vụ trên các lĩnh vực.

Cấp 138 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu và giải quyết tồn đọng đất đai. Triển khai các hoạt động hưởng ứng Tuần lễ Quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường năm 2022.

- Lĩnh vực Văn hóa thông tin, thể dục thể thao:Tập trung tuyên truyền kỷ niệm 77 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 02/9; 77 năm ngày truyền thống Công an Nhân dân; 92 năm ngày truyền thống ngành Tuyên giáo; tuyên truyền tiêm chủng vắc xin Covid-19 cho các nhóm đối tượng; xây dựng hoàn thiện 04 chương trình bản tin truyền hình Thiệu Hóa.

-Lĩnh vực Giáo dục và Đào tạo: Chỉ đạo tổng kết năm học 2021-2022, triển khai nhiệm vụ năm học 2022-2023. Xây dựng kế hoạch bố trí, sắp xếp cán bộ quản lý, giáo viên các cấp phù hợp với thực tiễn. Chỉ đạo rà soát, kiểm tra chuẩn bị cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ năm học mới.

- Lĩnh vực y tế:Chỉ đạo các cơ sở y tế thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân; Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 trong tình hình mới; tuyên truyền phòng các loại dịch bệnh phát sinh ở mùa hè, công tác quản lý vệ sinh ATTP được đảm bảo.

- Lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội:Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách an sinh xã hội. Công tác giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động và đào tạo nghề cho lao động nông thôn tiếp tục được quan tâm.

Công tác quốc phòng - an ninh

- Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện cơ bản ổn định. Tổ chức thành công diễn tập PCLB-TKCN cấp huyện với thực binh tình huống chống tràn đê và thực binh Cứu hộ, cứu nạn. Tổ chức thành công diễn tập chiến đấu xã trong khu vực phòng thủ cho 7 xã(Tân Châu, Thiệu Trung, Thiệu Giao, Thiệu Ngọc, Thiệu Thành, Thiệu Công, Thiệu Tiến)năm 2022.

- Lực lượng công an từ huyện đến cơ sở tổ chức thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ, giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Chỉ đạo tổ chức thành công Ngày hội “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” năm 2022 cấp huyện và tại các xã, thị trấn. Trong tháng, lực lượng Công an đã phát hiện, xử lý 07 vụ việc, tăng 01 vụ so với tháng 7/2022; xử lý 24 trường hợp vi phạm trật tự ATGT.

Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội

-Công tác giáo dục chính trị tư tưởng: Tổ chức giám sát việc lãnh đạo, tổ chức thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW gắn với thực hiện Kết luận 21 tại Đảng bộ xã Thiệu Lý, Thiệu Công và Chi bộ BHXH huyện. Chỉ đạo xây dựng báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW của BCH TW Đảng (khóa X); sơ kết 05 năm thực hiện Chỉ thị số 07-CT/TW ngày 05/9/2016 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XII); sơ kết 05 năm thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 05/9/2016 của Ban bí thư Trung ương Đảng (khóa XII). Tổ chức hội nghị bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới; tổ chức lớp nhận thức về Đảng, lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho viên mới...

-Công tác tổ chức,cán bộ: Thực hiện quy trình bổ nhiệm, bổ nhiệm lại chức vụ lãnh đạo, quản lý khối trường học; thỏa thuận bổ nhiệm lại Hiệu trưởng trường THPT Thiệu Hóa. Hoàn thành rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp theo quy định. Lãnh đạo hoàn thành công tác chỉ đạo Đại hội chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở nhiệm kỳ 2022-2025. Chỉ đạo cử cán bộ đi học lớp trung cấp lý luận chính trị hệ tập trung năm 2022. Hoàn chỉnh hồ sơ xét Huy hiệu Đảng đợt 02/9/2022 cho 190 đồng chí.

- Công tác kiểm tra, giám sát:Tổ chức giám sát thường xuyên theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ kiểm tra do cấp ủy giao; chỉ đạo tổ chức đảng có liên quan thực hiện quy trình kiểm điểm đảng viên vi phạm tại Đảng bộ xã Thiệu Toán. Tiến hành thẩm định đánh giá, xếp loại viên chức lãnh đạo, quản lý khối trường học để thực hiện quy trình trong công tác cán bộ theo quy định. Tiếp tục chỉ đạo việc xem xét, giải quyết đơn thư theo thẩm quyền.

- Công tác dân vận:Tập trung nắm tình hình, tâm tư nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và quần chúng Nhân dân, tình hình tôn giáo trên địa bàn huyện. Phối hợp tổ chức Hội nghị tuyên truyền, tập huấn công tác dân vận khéo trong xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu tại xã Thiệu Nguyên. Tổ chức kiểm tra kết quả triển khai, thực hiện Kết luận số 610-KL/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy tại Đảng bộ xã Thiệu Hợp và xã Thiệu Ngọc. Chỉ đạo xây dựng mô hình “Chính quyền thân thiện vì nhân dân phục vụ”...

-Hoạt động của HĐND - UBNDhuyện:Đôn đốc các ngành giải quyết các ý kiến, kiến nghị của cử tri, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung điều hành quyết liệt, bám sát các mục tiêu, chỉ tiêu theo kế hoạch. Chỉ đạo chăm sóc phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng vụ Thu mùa; tăng cường công tác tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho các nhóm đối tượng; đẩy nhanh tiến độ GPMB, tiến độ xây dựng các công trình, dự án; quan tâm đối thoại, giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội:Tập trung tuyên truyền, vận động hội viên, đoàn viên, Nhân dân tích cực thi đua lao động sản xuất, xây dựng NTM nâng cao, kiểu mẫu; chú trọng xây dựng sản phẩm OCOP. Thường xuyên duy trì công tác tổng vệ sinh môi trường; phát động phong trào xây dựng mô hình khu dân cư“Sáng - xanh - sạch - đẹp - an toàn”,“Camera an ninh”, “Khu dân cư an toàn làm chủ”; “Khu dân cư không có tội phạm, TNXH”;tổ chức gắn biển tên đường và đánh số nhà trên địa bàn của các thôn; vận động Nhân dân hiến trên 13.500m2đất hiến đất để mở rộng đường, nâng cấp, chỉnh trang cảnh quan môi trường. Triển khai Kế hoạch vận động kinh phí hỗ trợ làm nhà ở cho hộ nghèo trên địa bàn huyện năm 2022. Đoàn thanh niên chỉ đạo tổ chức tổng kết hoạt động hè 2022. Hội cựu chiến binh huyện vận động hỗ trợ cho 01 hội viên gặp khó khăn về nhà ở với số tiền 20 triệu đồng. Hội Nông dân phối hợp công nhận sản phẩm lúa Vietgap tại xã Thiệu Duy. Liên đoàn lao động huyện triển khai giai đoạn 2 Chương trình “01 triệu sáng kiến - nỗ lực vượt khó, sáng tạo, quyết tâm chiến thắng đại dịch Covd-19”. Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện phối hợp tổ chức các lớp tập huấn phân loại rác thải tại hộ gia đình, trao 02 bê vàng cho 02 hội viên khó khăn trị giá 28,5 triệu đồng.

Trịnh Văn Đệ

Chánh Văn phòng Huyện ủy

KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH PHỐI HỢP KHUYẾN HỌC, KHUYẾN TÀI CỦA HỘI KHUYẾN HỌC VỚI MTTQ, CÁC ĐOÀN THỂ HUYỆN, GIAI ĐOẠN 2017- 2021

Việc triển khai thực hiện chương trình phối hợp khuyến học, khuyến tài xây dựng xã hội học tập, giai đoạn 2017 - 2021 với Ủy ban MTTQ, các đoàn thể, có nhiều yếu tố thuận lợi; đặc biệt, ngày 10/5/2019 Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Kết luận số 49-KL/TW tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 11-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa X) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập”; Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 14/CT-TTg “Về đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021 - 2026” và Quyết định số 489/QĐ-TTg, ngày 8/4/2020 thực hiện Kết luận 49 của Ban Bí thư; Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch số 164-KH/TU, ngày 15/8/2019; Chủ tịch UBND ban hành Kế hoạch 174/KH-UBND, ngày 18/8/2020, thực hiện Kết luận số 49-KL/TW của Ban Bí thư. Trong đó phải kể đến các văn bản chỉ đạo như Kế hoạch số 30- KH/HU của Huyện ủy, Kế hoạch số 795-KH/UBND ngày 22/12/2020 của UBND huyện Thiệu Hóa chỉ đạo các Đảng ủy, UBND xã, thị trấn và các cơ quan đơn vị đóng trên địa bàn huyện thực hiện nghiêm túc kết luận 49-KL/TW, Quyết định 489-QĐ TTg của Thủ tướng Chính phủ, KH 164-KH/TU của Thường vụ Tỉnh ủy và 174-KH/UBND của UBND tỉnh về công tác khuyến học khuyến tài. Công văn số 130/CV/BTGHU ngày 22/12/2021 của Ban Tuyên giáo huyện ủy về “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối với công tác khuyến học khuyến tài, XDXHHT” Các kết luận, chỉ thị, quyết định, kế hoạch nêu trên đã xác định những quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp công tác khuyến học, khuyến tài xây dựng xã hội học tập trong giai đoạn mới.

Tuy nhiên, trong 5 năm qua, công tác khuyến học, khuyến tài cũng gặp không ít khó khăn, như: lũ lụt, dịch bệnh, nhất là đại dịch covid 19; mặt khác, hầu hết đội ngũ cán bộ Hội Khuyến học cơ sở và một số lãnh đạo Ủy ban MTTQ, các đoàn thể thay đổi; nên ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện chương trình phối hợp.

Bám sát chương trình phối hợp trong cả giai đoạn đã ký kết, hàng năm các bên đã cụ thể hóa bằng kế hoạch thực hiện sát hợp với chức năng nhiệm vụ và tính chất hoạt động của đơn vị mình, tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm và triển khai nhiệm vụ năm tiếp theo. Việc thực hiện chương trình phối hợp đã được cấp ủy, lãnh đạo Ủy ban MTTQ, các đoàn thể quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nên cơ bản đạt được những mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Đáng quan tâm là công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học được gắn với việc thực hiện và đánh giá thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên. Đánh giá việc thực hiện Chương trình phối hợp, kết quả nổi bật như sau:

1. Công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ của Đảng, chính sách pháp của Đảng, Nhà nước; Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo, khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập cho cán bộ, đoàn viên, hội viên, công chức, viên chức, chiến sĩ và nhân dân, được triển khai đồng bộ với nhiều hình thức phong phú, khai thác tối đa các điều kiện, phương tiện truyền thông của đơn vị cho công tác tuyên truyền. Do vậy đã tạo được chuyển biến rõ nét về nhận thức đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, công chức, viện chức, chiến sĩ và người lao động.

2. Số lượng, chất lượng tổ chức, hội viên, đội ngũ cán bộ Hội Khuyến học được nâng lên; một số đơn vị Ban Khuyến học đã phát huy được vai trò trách nhiệm tham mưu và làm nòng cốt trong công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập ở cơ quan và trong hệ thống; số tổ chức hội hoạt động xuất sắc đạt tỷ lệ cao.

3. Phong trào học tập thường xuyên, học tập suốt đời được phát động trong cán bộ, đoàn viên, hội viên, công chức, viên chức và nhân dân; một số đơn vị đã quan tâm, tạo điều kiện thời gian, hỗ trợ tài chính cho cán bộ công chức, viên chức, người lao động học tập, nghiên cứu khoa học, phát huy sáng kiến, kinh nghiệm; phong trào học tập đã góp phần nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của cán bộ công chức, viên chức, chiến sĩ, người lao động. Cùng với việc đẩy mạnh phong trào học tập trong đơn vị, Ủy ban MTTQ, các đoàn thể đã có những đóng góp tích cực trong việc xây các mô hình học tập trong gia đình, dòng họ, cộng đồng, đơn vị; nhiều gia đình cán bộ, đoàn viên, hội viên, công chức, viên chức, người lao động đạt “gia đình học tập”. Các đơn vị đã tổ chức nhiều hoạt động học tập tại Trung tâm học tập cộng đồng như đào tạo, chuyển đổi nghề, triển khai các dự án xóa đói giảm nghèo, chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật, phổ biến kinh nghiệm sản suất, kinh doanh, các hoạt động văn hóa thể thao, nâng cao chất lượng cuộc sống; phối hợp tổ chức có hiệu quả các hoạt động hỗ trợ giáo dục trong trường học nhất là hỗ trợ cơ sở vật chất, phương tiện dạy và học (đối với ngành GDĐT chỉ đạo,tổ chức đẩy mạnh hoạt động của TTHTCĐ theo tinh thần cần gì học nấy, hỗ trợ giáo dục trong và ngoài nhà trường rất hiệu quả).

4. Việc xây dựng và phát triển Quỹ khuyến học, khuyến tài được quan tâm, nhiều đơn vị có cách làm thiết thực và hiệu quả, vừa vận động cán bộ, đoàn viên, hội viên, công chức, viên chức, chiến sĩ, người lao động; vừa vận động các nhà hảo tâm, các doanh nghiệp đóng góp xây dựng quỹ hoặc trực tiếp trao thưởng cho con em trong đơn vị, học sinh có hoàn cảnh khó khăn vươn lên học tốt và thi đỗ đại học; cán bộ, đoàn viên, hội viên công chức, chiến sĩ có thành tích trong nghiên cứu khoa hoc, trong học tập,.v.v. Quỹ khuyến học, khuyến tài, đã có tác dụng thiết thực động viên cán bộ, đoàn viên, hội viên, công chức, viên chức, chiến sĩ, người lao động tích cực nghiên cứu khoa học, ứng dụng vào công tác, học tập nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, động viên con em cán bộ, công chức và nhâm dân vươn lên học tập, công tác tốt hơn.

Tóm lại, việc thực hiện chương trình phối hợp giữa Hội Khuyến học với Ủy ban MTTQ, các đoàn thể chính trị, phòng GDĐT, LLVT, các Hội đặc thù, trung tâm Văn hóa, Thông tin, Thể thao và Du lịch huyện trong 5 năm qua đã đạt nhiều kết quả, tạo được chuyển biến mới trong nhận thức; chất lượng công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, công chức, viên chức, chiến sĩ và nhân dân được nâng lên; đã thiết thực góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và phát triển đơn vị ngày càng vững mạnh và tham gia tích cực vào việc phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo; đào tạo nghề, đào tạo nguồn nhân lực, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; bảo vệ môi trường, xây dựng gia đình hạnh phúc trên địa bàn huyện nhà; Trong 5 năm qua, Hội khuyến học huyện đã được khen tập thể:

  • 2 lần nhận cờ thi đua xuất sắc của TW Hội KHVN (2016-2021);
  • 2 bằng khen của UBND tỉnh;
  • 3 bằng khen của TW Hội;
  • Nhiều cơ sở HKH và cá nhân đã được tặng Bằng khen, giấy khen của các cấp, các ngành.

Phát huy kết quả, thành tích đã đạt được 5 năm qua, trong thời gian tới, Hội Khuyến học huyện tiếp tục ký Chương trình phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, cơ quan trong huyện về công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XX về đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, xây dựng quê hương Thiệu Hóa giàu đẹp, văn minh.

Nguyễn Bá Huệ

Chủ tịch Hội Khuyến học huyện

BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNGCỦAĐẢNG,ĐẤU TRANH PHẢN BÁCCÁC QUAN ĐIỂMSAI TRÁI THÙ ĐỊCH

LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI VỀ XÂY DỰNG

NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM

Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN được xác định là nội dung trọng tâm của đổi mới chính trị tại Việt Nam. Thời gian qua, các cơ quan chức năng đã tích cực thảo luận, lấy ý kiến đóng góp để hoàn thiện Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”.

Tuy nhiên, với mưu đồ chống phá, nhiều đối tượng xấu đã xuyên tạc, công kích, đưa ra các bài viết làm sai lệch bản chất vấn đề. Một số bài viết cho rằng đã là nhà nước pháp quyền thì không thể đi đôi với XHCN, đưa ra “kiến nghị” đòi bỏ nội dung XHCN trong đề án xây dựng nhà nước pháp quyền.

Thậm chí, một số người nhân danh cấp tiến, đổi mới để vu cáo rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam hiện “đứng trên pháp luật” nên không thể có nhà nước pháp quyền; cho rằng việc đưa ra định hướng XHCN chỉ để mang lại lợi ích cho Đảng chứ không phải vì lợi ích quốc gia, dân tộc; việc đặt đề án xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là nhằm che đậy cho bản chất độc tài của chế độ… Những luận điệu trên thể hiện rõ ý đồ chống phá chế độ, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Ngược dòng lịch sử, tư tưởng về nhà nước pháp quyền xuất hiện từ sớm, gắn với các nhà tư tưởng nổi tiếng như Socrates (469-399 Tr.CN), Aristoteles (384-322 Tr.CN), Cicero (l06-43 Tr.CN), John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 - 1755), Jean Jacques Rousseau (1712 - 1778), I.Kant (1724 - 1804), Hegel (1770 - 1831) v.v… Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ, đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân.

Những yếu tố cơ bản để xây dựng một nhà nước pháp quyền là xã hội có dân chủ, đất nước có một hệ thống pháp luật đầy đủ và mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Nhà nước pháp quyền vừa là một giá trị chung của nhân loại, vừa là một giá trị riêng của mỗi một dân tộc, quốc gia. Tuỳ thuộc vào đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển mà các quốc gia khác nhau sẽ xây dựng một mô hình nhà nước pháp quyền cụ thể một cách thích hợp.

Tại Việt Nam, mô hình mà chúng ta lựa chọn là nhà nước pháp quyền XHCN. Điều này đã được ghi nhận cụ thể tại khoản 1, Điều 2 Hiến pháp 2013: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là hoàn toàn phù hợp cả về mặt lý luận và thực tiễn.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Như vậy, đây là bộ máy quyền lực của chính quần chúng nhân dân lao động, phục vụ lợi ích của đại đa số người dân trong xã hội.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Tại Việt Nam, Đảng, Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức có nghĩa vụ và trách nhiệm tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân. Mọi hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền đều kiên quyết bị xử lý.

Trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là “đứng trên pháp luật”, “không tuân thủ pháp luật” như những gì các đối tượng xấu cố tình bôi nhọ. Tất cả các tổ chức của Đảng và đảng viên đều phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật tuỳ theo tính chất, mức độ, hậu quả sẽ bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật.

Việc Việt Nam xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là phù hợp với mong muốn, nguyện vọng của nhân dân. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”.

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, chúng ta đã đạt được những kết quả tích cực trên tất cả các lĩnh vực. Sau 35 năm thực hiện đổi mới, kinh tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao (khoảng 6%/năm), cơ cấu kinh tế thay đổi theo chiều hướng tích cực, tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Môi trường hoà bình, ổn định được giữ vững, là tiền đề quan trọng để đất nước phát triển. Công tác xóa đói giảm nghèo được triển khai mạnh mẽ, tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của cả nước đã giảm bình quân trên 1,4%/năm giai đoạn 2016 - 2020. Lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục cũng đạt được nhiều thành tựu. Trong quan hệ quốc tế, vị thế của Việt Nam ngày càng tăng cao và được bầu giữ nhiều vị trí quan trọng trong các tổ chức quốc tế. Đây là những minh chứng rõ ràng khẳng định Việt Nam đang phát triển đúng hướng.

Quá trình phát triển cũng bộc lộ những hạn chế, khiếm khuyết, trong đó có vấn đề tham nhũng, suy thoái, những hiện tượng tiêu cực trong đời sống văn hóa, xã hội còn diễn biến phức tạp, nhiều vấn đề tồn tại kéo dài khiến dư luận bức xúc, ảnh hưởng tới sự uy nghiêm của luật pháp và niềm tin của người dân vào thể chế. Tuy nhiên, những tồn tại đó có nguyên nhân khách quan, chủ quan, nhất là trong điều kiện đất nước hội nhập, mở cửa, luật pháp chưa đầy đủ, còn những kẽ hở bị lợi dụng; công tác quản lý Nhà nước còn những yếu kém, còn tình trạng cán bộ, đảng viên suy thoái, nhũng nhiễu.

Vấn đề là Đảng, Nhà nước ta nghiêm túc nhìn nhận hạn chế, thiếu sót, đưa ra các giải pháp trước mắt và lâu dài để chấn chỉnh, đặc biệt là việc xây dựng Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”. Vì vậy, không có lý do gì để các đối tượng tự xưng “nhà dân chủ” để giở trò “đâm bị thóc, chọc bị gạo”, xuyên tạc tình hình, bôi nhọ Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Ban Biên tập

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

Cách mạng Tháng Tám giành thắng lợi cách đây 77 năm là dấu mốc lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam thời hiện đại. Vậy mà, những phần tử cơ hội, xét lại trong và ngoài nước, đặc biệt cái gọi là đảng Việt Tân lại cố tình phủ nhận thành quả vĩ đại ấy của dân tộc ta. Chúng cho rằng “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sai lầm lịch sử”, “là đi ngược lại sự bảo hộ của mẫu quốc”, “là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam”... Đây là những luận điệu xuyên tạc trắng trợn của những kẻ thiếu lương tri...quên đi “vết nhơ” của lịch sử dân tộc ta đã phải chịu cảnh nô lệ, lầm than hơn 80 năm.

Năm 1858, thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp nước ta, áp bức đồng bào ta, khiến dân tộc ta mất quyền độc lập, nhân dân ta phải chịu cảnh nước mất, nhà tan,“một cổ hai tròng”. Thực dân Pháp không cho dân ta bất cứ quyền tự do dân chủ nào; bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, thẳng tay chém giết những người yêu nước, dìm những cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta trong bể máu... Từ năm 1940, trước sự xâm lăng của phát xít Nhật vào Đông Dương và Việt Nam, đã bao lần Việt Minh kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Vậy mà, chẳng những thực dân Pháp không đáp ứng, lại thẳng tay đàn áp Việt Minh và quỳ gối đầu hàng, bán nước ta cho phát xít Nhật, làm cho nhân dân ta phải chịu hai tầng xiềng xích...

Luận điệu cho rằng Cách mạng Tháng Tám là “nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam” thì quả là sự vu khống và xuyên tạc lịch sử. Bởi lẽ, sau khi Nhật hàng đồng minh, Vua Bảo Đại thoái vị, nhân dân ta giành được chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa được bao lâu, thì ngày 23-9-1945, thực dân Pháp quay trở lại cướp nước ta một lần nữa. Trước tình thế đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiều chính sách để gìn giữ hòa bình, tránh “cuộc chiến tranh đổ máu vô nghĩa”. Nhưng “chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”. Với tinh thần “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, quân và dân ta đã trường kỳ kháng chiến và giành thắng lợi to lớn trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”. Với bản chất hiếu chiến, phản động, thực dân Pháp đã cấu kết và “bật đèn xanh” cho đế quốc Mỹ nhảy vào xâm lược Việt Nam và Đông Dương, buộc nhân dân ta phải tiếp tục chiến đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc và con đường phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) do Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta xác định từ năm 1930. Và con đường cách mạng chân chính ấy đã đưa nước ta đến thắng lợi vẻ vang vào ngày 30-4-1975, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lênCNXH. Như vậy, chính sự hiếu chiến xâm lược của bọn thực dân, đế quốc là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta, chứ không phải Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam” như bọn phản động xuyên tạc.

Về vai trò lãnh đạo và nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, chúng cho rằng “đó là sự ăn may, vì Nhật thua trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chứ Đảng Cộng sản Việt Nam chẳng có tài cán gì”; rằng “do khoảng trống quyền lực, nên Việt Nam dễ giành được kết quả nhanh chóng”... Thực chất, luận điệu ấy là chúng muốn phủ nhận vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với vận mệnh dân tộc Việt Nam, phủ nhận khối đại đoàn kết và tinh thần dân tộc, khát khao giành độc lập dân tộc của nhân dân ta sau hơn 80 năm dưới sự cai trị tàn bạo của chế độ thực dân Pháp. Cách mạng Tháng Tám nổ ra và giành thắng lợi do Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng suốt lựa chọn con đường giải phóng dân tộc một cách khoa học, đúng đắn, khắc phục triệt để hạn chế, sai lầm của những con đường cứu nước mà các nhà yêu nước trước đó đã tiến hành và khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Các cao trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945 thực sự là những “cuộc tổng diễn tập”, là tiền đề cho Cách mạng Tháng Tám thành công. Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát lệnh Tổng khởi nghĩagiành chính quyền trong cả nước đúng thời cơ, vào thời điểm thuận lợi nhất nên đã giành thắng lợi!

Về thành quả của Cách mạng Tháng Tám, chúng cho rằng “không có gì thay đổi chế độ xã hội ở Việt Nam, chẳng qua chỉ là thay từ chế độ “vua trị” sang chế độ “đảng trị”... Đây là sự xuyên tạc trắng trợn và phi lịch sử. Ngay về thuật học, chúng đã đánh tráo khái niệm. Ở nước ta, chế độ “vua trị”, hay nói cách khác là chế độ “quânchủ” bao giờ cũng đối lập hoàn toàn với chế độ “dân chủ”. Trong khi đó, cuộc Cách mạng Tháng Tám không những lật đổ sự thống trị của thực dân, phát xít, mà còn lật đổ hoàn toàn chế độ phong kiến “vua trị”.

Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ tôn chỉ, mục đích rõ ràng “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Mục tiêu của Cách mạng Tháng Tám “là giành lại hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ cho Tổ quốc ta, cho nhân dân ta”. Nghĩa là, đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và bọn phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc hoàn toàn, độc lập dân tộc thực sự để đi đến xây dựng một xã hội hoàn toàn ấm no, tự do, hạnh phúc-chế độ cộng sản chủ nghĩa. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bảnTuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa nhân dân ta từ kiếp nô lệ, bị bóc lột lên địa vị làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội. Đồng thời, đưa cách mạng Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới độc lập dân tộc vàCNXH. Thành quả ấy đã giải quyết được vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam - vấn đề chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đây là điều kiện tiên quyết để nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN)...

Giá trị lịch sử và thời đại vô cùng to lớn của Cách mạng Tháng Tám đó làgiá trị hòa bình chân chính. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ là thắng lợi của nhân dân Việt Nam mà còn là ngọn cờ đầu của các dân tộc, thuộc địa bị áp bức đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới.

Để kiên quyết đấu tranh, làm thất bại những thủ đoạn thâm độc ấy của các thế lực thù địch, hơn bao giờ hết, chúng ta phải tiếp tục khẳng định giá trị lịch sử và thời đại to lớn của Cách mạng Tháng Tám; phải nâng cao bản lĩnh chính trị vững vàng, tư tưởng luôn kiên định với con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Hiện nay, trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới, khu vực, mỗi quốc gia - dân tộc đều có những chiến lược, sách lược nhất định nhằm bảo đảm tối cao lợi ích quốc gia - dân tộc. Đảng ta chủ trương phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân làm động lực chủ yếu để phát triển đất nước; độc lập dân tộc vàCNXHlà mục tiêu tối thượng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN; phấn đấu “sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân...; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”là những mục tiêu, giải pháp căn bản, góp bảo vệ thành quả vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của dân tộc ta.

Ban Biên tập

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ TƯ TƯỞNG

HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả của sau 15 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, với cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936-1939 đến phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, theo Hồ Chủ Tịch, là “vì chính sách của Đảng đúng và thi hành chính sách ấy kịp thời và linh động”, “do sự lãnh đạo sáng suốt và kiên quyết của Đảng, do sức đoàn kết và hăng hái của toàn dân trong và ngoài Mặt trận Việt Minh”.

Viết về ý nghĩa của cuộc Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: “Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”. Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây dựng nền tảng nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. “Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử nước ta”.

Thành quả lớn nhất của Cách mạng Tháng Tám là xây dựng Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, với đặc trưng nổi bật: Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong bài “Chính phủ là công bộc của dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do, hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”.

Ngay sau khi giành được chính quyền, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng toàn dân xây dựng, củng cố chính quyền nhân dân. Về chính quyền nhân dân ở các địa phương, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Các Ủy ban nhân dân làng, phủ là hình thức Chính phủ địa phương phải chọn trong những người có công tâm, trung thành, sốt sắng với quyền lợi dân chúng, có năng lực làm việc, được đông đảo dân làng tín nhiệm. Không thể nhờ tiền tài hay một thế lực gì khác mà chui lọt vào các Ủy ban đó”.

Những ngày tháng sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh giành nhiều thời gian viết về xây dựng các Ủy ban nhân dân. Bài “Cách thức tổ chức các Ủy ban nhân dân, ngày 11-9-1945”. Người nhấn mạnh: “Ủy ban nhân dân làng trái với các hội đồng kỳ mục cũ thối nát, sẽ làm những việc có lợi cho dân, không phạm vào công lý, vào tự do của dân chúng. Nó hết sức tránh những cuộc bắt bớ đánh đập độc đoán, những cuộc tịch thu tài sản không đúng lý. Ủy ban nhân dân thận trọng hết sức trong chỗ chi dùng công quỹ, không dám tùy ý tiêu tiền vào những việc xa phí như ăn uống”. “Những nhân viên Ủy ban sẽ không lợi dụng danh nghĩa Ủy ban để gây bè tìm cánh, đưa người “trong nhà trong họ” vào làm việc với mình”. “Ủy ban nhân dân là Ủy ban có nhiệm vụ thực hiện tự do, dân chủ cho dân chúng. Nó phải hành động đúng tinh thần tự do, dân chủ đó”.

Chính quyền ở địa phương ở cơ sở đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi dân chủ trực tiếp với nhân dân. Trong bài “Sao cho được lòng dân?, ngày 12-10-1945”, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dẫu khó đến đâu cũng mặc lòng, những vấn đề quan hệ đến đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới. Phải chăm lo việc cứu tế nạn nhân cho chu đáo, phải chú ý trừ nạn mù chữ cho dân. Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được đặc biệt chú ý” “muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, phải đặt quyền lợi của dân lên trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”.

Trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, ngày 17-10-1945”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối. Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Điều này cho thấy, bản chất cách mạng và dân chủ của chính quyền nhân dân, nguồn gốc sức mạnh của chính quyền là ở sự gắn bó với nhân dân, hết lòng, hết sức mưu cầu tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Hồ Chí Minh rất coi trọng việc phát huy dân chủ của người dân để lựa chọn ra người đại biểu vào cơ quan chính quyền nhà nước. Do đó, ngày 3-9-1945, phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người đã đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Theo Người, “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà. Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng; tức là dân chủ, đoàn kết”. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt tôn giáo, dân tộc, giàu nghèo, dòng giống, v.v.. “Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của toàn dân”.

Để bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân được thực thi, Hồ Chí Minh yêu cầu phải quản lý đất nước, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”. Người nhấn mạnh “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Do đó, ngày 09-11-1946, Bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được thông qua tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I. Trong hoàn cảnh cách mạng nước nhà ngàn cân treo sợi tóc, “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”, việc thông qua Hiến pháp càng có ý nghĩa quan trọng về thực tiễn và pháp lý. Đây còn là thành quả to lớn của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hiến pháp là thành quả vẻ vang của cách mạng và được xây dựng trên các nguyên tắc:Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, trai gái, giai cấp, tôn giáo; Bảo đảm các quyền tự do dân chủ; Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.

Bản chất cách mạng và nhân dân, tính chất dân chủ và pháp quyền hòa quyện thống nhất với nhau thể hiện trong bản Hiến pháp 1946 “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam”. Có tới 11 điều của Hiến Pháp quy định về quyền lợi của công dân (từ điều 6 đến điều 16).Hiến pháp xác định mọi công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa. Công dân đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình (…). Người tàn tật, già cả được giúp đỡ. Trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng. Thực hiện chế độ phổ cập giáo dục bắt buộcv.v. Đó là những nội dung dân chủ mang tính cách mạng sâu sắc. Từ đó đến nay, những nội dung đó vẫn được tiếp tục được bổ sung, phát triển trong các bản Hiến pháp tiếp theo, đã và đang được thực hiện một cách sinh động trên đất nước ta.

Những quy định trong Hiến pháp thể hiện sâu sắc bản chất của Nhà nước kiểu mới của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước của dân và do dân nghĩa là nhân dân xây dựng, củng cố, bảo vệ chính quyền nhà nước. Nhà nước vì dân nghĩa là nhà nước mưu cầu quyền lợi, hạnh phúc cho nhân dân. “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”; “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Như vậy, vì dân không chỉ là mục tiêu hoạt động và tồn tại của chính quyền mà còn là phương thức, phong cách và phương pháp hành động của chính quyền.

Trong xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Hồ Chí Minh rất chú trọng rèn luyện đội ngũ cán bộ chính quyền. Người nghiêm khắc phê phán những biểu hiện như: “ngang tàng, phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân”, đời sống nhân dân khốn khổ mà cán bộ “Ăn muốn cho ngon, mặc muốn cho đẹp, càng ngày càng xa xỉ, càng ngày càng lãng mạn, thử hỏi tiền bạc ấy ở đâu ra? Thậm chí lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức”. Thái độ đó làm mất lòng tin của nhân dân và uy tín của Chính phủ. Do đó, Người mong muốn mọi người sửa chữa để chính quyền ngày càng hoàn thiện và làm việc tốt hơn “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lỗi lầm trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặt ra yêu cầu mọi cán bộ phải thường xuyên tự phê bình, tự giáo dục, tự chỉ trích để khắc phục khuyết điểm và cái hư hỏng trong mỗi người và trong bộ máy. Những khuyết điểm nhỏ của cán bộ thì làm cho dân chúng hoang mang, lớn thì ảnh hưởng đến khối đoàn kết toàn dân. Vì vậy, chúng ta phải lập tức sửa đổi ngay. Chúng ta không sợ có khuyết điểm mà chỉ sợ không có quyết tâm sửa đổi.

Sau Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta mong muốn và đã làm hết sức mình để xây dựng, củng cố vững chắc Nhà nước kiểu mới - Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 về phương diện xây dựng nhà nước kiểu mới mãi mãi là bài học lớn, là định hướng để xây dựng và không ngừng hoàn thiện Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu ra những quan điểm và biện pháp cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội chỉ rõ: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân” . Đó là sự tiếp tục phát triển thành quả của Cách mạng Tháng Tám và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân trong thời kỳ mới.

Ban Biên tập

HỘI NÔNG DÂN XÃ THIỆU VẬN LÀM THEO LỜI BÁC

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu”. Thấm nhuần lời dạy đó của Bác, những năm qua, Hội Nông dân xã Thiệu Vận đã tuyên truyền, vận động các hội viên học và làm theo Bác, được đông đảo cán bộ, hội viên tích cực hưởng ứng bằng những việc làm thiết thực, góp phần không nhỏ vào công tác xây dựng đời sống văn hóa, phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới ngày càng phát triển.

Thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng ủy xã, Hội Nông dân xã đã phối hợp chặt chẽ, triển khai, quán triệt và ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các chi hội cơ sở tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Ban Thường vụ Hội đã thường xuyên hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các chi hội trong quá trình tổ chức thực hiện; coi trọng, có biện pháp khuyến khích, tạo điều kiện thúc đẩy phong trào thi đua nông dân sản xuất kinh doanh (SXKD) giỏi phát triển sâu rộng, thu hút đông đảo các hộ nông dân đăng ký, hưởng ứng tham gia. Hằng năm, Hội phối hợp với UBND xã phát động phong trào thi đua SXKD giỏi đến các hội viên nông dân, đã có 612 hộ đăng kí tham gia. Thông qua đánh giá kết quả phong trào, có 485 hộ đạt danh hiệu hộ sản xuất kinh doanh giỏi các cấp, đạt tỷ lệ 85% so với số hộ đăng ký. Song song với tổ chức thực hiện phong trào SXKD giỏi, Ban Chấp hành Hội Nông dân xã còn vận động cán bộ, hội viên làm mới và chỉnh trang nhà ở, huy động nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Kết quả trong năm qua, trên địa bàn xã, hội viên nông dân đã sửa chữa và làm mới được 96 nhà ở, tham gia 850 ngày công lao động và đóp góp làm đường giao thông nông thôn và giao thông nội đồng, hiến được 500m2làm đường giao thông nông thôn; vận động hội viên chú trọng đầu tư ba công trình sạch, như nhà tắm, nhà tiêu hợp vệ sinh và công trình nước sạch, kết quả đã làm được 750 nhà tắm, nhà tiêu hợp vệ sinh để góp phần xây dựng nông thôn mới nâng cao.

Hưởng ứng phong trào xây dựng xã Nông thôn mới nâng cao, Hội đã tích cực tuyên truyền, vận động hội viên tham gia công tác vệ sinh môi trường, đặc biệt là đảm nhận việc thu gom bao bì, chai lọ thuốc bảo vệ thực vật ở các xứ đồng, tập kết vào các thùng và vận chuyển về bãi rác thải theo quy định (toàn xã có 70 thùng); đã tạo được thói quen cho nhân dân sau mỗi khi phun thuốc trừ sâu cho lúa và hoa màu bỏ vỏ bao bì, chai lọ thuốc bảo vệ thực vật vào đúng nơi quy định. Hội luôn tuyên truyền về công tác vệ sinh môi trường, VSATTP đến cán bộ, hội viên và nhân dân, nhằm giúp bà con nông dân nhận thức rõ được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc sản xuất rau sạch và an toàn cho gia đình mình và cho người tiêu dùng. Hội đã thành lập tổ hợp tác "Chăn nuôi gà thịt thương phẩm trên nền đệm lót sinh học gắn với tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị" tại xã Thiệu Vận. Tổ hợp tác thành lập với 10 thành viên trên cơ sở tự nguyện liên kết trao đổi kinh nghiệm với nhau trong chăn nuôi, tạo điều kiện để thúc đẩy chăn nuôi phát triển, nâng cao thu nhập cho nông dân.

Hội luôn quán triệt sâu sắc đến từng cán bộ, hội viên đẩy mạnh cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư"; mỗi cán bộ, hội viên nông dân phải thực sự là cầu nối giữa Đảng với dân, gương mẫu chấp hành tốt các đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh bài trừ mê tín dị đoan, phòng chống ma túy và các tệ nạn xã hội ở khu dân cư; thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở. Chỉ đạo các chi hội làm tốt cam kết đến từng hội viên không vi phạm pháp luật, không tham gia cờ bạc và tệ nạn xã hội...

Bằng những việc làm cụ thể và thiết thực kể trên của Hội Nông dân xã Thiệu Vận, đã tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động đối với cán bộ, hội viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Năm 2021, Hội Nông dân xã đã vinh dự được Chủ tịch UBND huyện Thiệu Hóa tặng "Giấy khen" vì có thành tích nổi bật trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, giai đoạn 2016 - 2021. Năm 2021, được Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa tặng "Bằng khen" vì đã có thành tích xuất sắc trong thực hiện phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, giai đoạn 2015 - 2020.

Đỗ Thị Lan

CV Ban Tuyên giáo Huyện ủy

THÔNG TIN - TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM

TỎI ĐEN SUZIN - NỖ LỰC XÂY DỰNG SẢN PHẨM OCOP

Nắm bắt được nhu cầu chăm sóc sức khoẻ từ các sản phẩm từ tự nhiên, chị Hoàng Thị Loan (Tiểu khu Ba Chè, thị trấn Thiệu Hóa) đã đầu tư mô hình sản xuất tỏi đen bằng công nghệ cao. Cung ứng ra thị trường những sản phẩm chất lượng, đảm bảo vệ sinh toàn thực phẩm.

Đối với người Việt Nam, từ lâu Tỏi đã trở thành một loại gia vị không thể thiếu trong căn bếp của mỗi gia đình, ngoài tác dụng tăng mùi vị của món ăn, tỏi còn có nhiều tác dụng trong phòng trị cảm cúm, tim mạch, hỗ trợ tăng cường miễn dịch, hỗ trợ ngăn ngừa ung thư…Tuy nhiên, mùi vị khó chịu của tỏi chính là rào cản khi sử dụng loại dược liệu này.

Tỏi đen vốn dĩ không có trong tự nhiên, nó là thành phẩm từ củ tỏi trắng trải qua quá trình lên men chậm trong điều kiện nhiệt độ, độ ẩm nghiêm ngặt những củ tỏi đen sẽ chuyển từ màu trắng sang màu đen và ăn rất ngọt, không còn vị cay nồng như tỏi trắng. Nắm bắt được nhu cầu về loại thực phẩm chức năng này chị Hoàng Thị Loan, ở Tiểu khu Ba Chè, thị trấn Thiệu Hóa đã mạnh dạn đầu tư phát triển mô hình sản xuất tỏi đen để cung cấp ra thị trường sản phẩm chất lượng cao.

Chị Loan cho biết: Cách đây 6 năm, qua lời giới thiệu của người thân về tác dụng của tỏi đen trong việc nâng cao sức khoẻ, tôi đã tìm mua cho mẹ dùng; sau thời gian sử dụng, mẹ tôi đã ổn định được đường huyết, giảm mỡ máu, các chỉ số về sức khỏe ổn định. Từ thực tế đó, tôi đã tìm hiểu thêm về công dụng, cách làm tỏi đen và được biết tại các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, người ta dùng tỏi đen rất phổ biến như một vị thuốc và thực phẩm chức năng với giá thành cao. Từ đó, tôi đã tìm hiểu về quy trình lên men tỏi trong nồi cơm điện ủ bằng bia từ 12 đến 15 ngày, hoặc máy làm tỏi công suất nhỏ để tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu của người dân địa phương. Tuy nhiên, tỏi đen ủ bằng bia có vị chua chứ không ngọt thanh như ủ bằng máy theo công nghệ Nhật Bản.

Năm 2019, tại một cơ sở dược liệu ở Hà Nội, chị Loan đã được mục sở thị quy trình sản xuất tỏi đen bằng các loại máy công suất lớn, có thể ủ từ 100 đến 300kg/1 lần ủ theo công nghệ Nhật Bản. Sau khi trở về, chị đã quyết tâm đầu tư 4 máy lên men và sấy dẻo với số vốn hơn 1 tỷ đồng và xây dựng chiến lược kinh doanh sản phẩm tỏi đen. Tỏi được chị Loan sử dụng để sản xuất tỏi đen là loại tỏi 1 nhánh được mua tại xã Hoằng Trinh, Hoằng Hóa. Tỏi được mua về phải trải qua nhiều công đoạn sàng lọc, chọn lựa, tránh những củ khô, mốc, sâu bệnh, sau đó rửa sạch, để khô. Toàn bộ các khay tỏi được đưa vào máy ủ lên men từ 30 - 35 ngày. Đó là thời gian đẩy mùi hăng và cay ra khỏi tỏi, những vi khuẩn có trong tỏi trắng cũng sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn. Kết thúc quá trình lên men, tỏi được đưa vào máy sấy từ 10 - 12 ngày”. Sau khoảng thời gian 45 ngày, những nhánh tỏi tươi màu trắng dần chuyển sang màu đen. Lúc này, mùi vị của tỏi đã thay đổi, tỏi đen mềm nhuận, có vị ngọt thanh, không có mùi hăng cay của tỏi tươi, mùi vị chua nhẹ giống như ô mai hoa quả. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, so với tỏi trắng thì tỏi được lên men có lượng hoạt chất tăng lên 16 lần và có nhiều công dụng tuyệt vời.

Tỏi đen Tăng cường sức đề kháng, hệ miễn dịch. Allicin có trong tỏi đen là một loại axit amin có khả năng tiêu diệt được nhiều loại virus, vi khuẩn. Hợp chất S-llylcysteine trong tỏi được lên men có khả năng ức chế một số dòng tế bào ung thư như: ung thư dạ dày, ung thư gan, ung thư đại tràng, trực tràng, ung thư vú,... Làm giảm mỡ áu, hạ cholesterol máu; thu dọn gốc tự do; chống oxy hóa; hỗ trợ điều trị các bệnh về tim mạch. Ăn tỏi đen thường xuyên và đúng cách cũng giúp bảo vệ tế bào gan hiệu quả. Tỏi đen được sử dụng cho nhiều đối tượng, người già, trẻ em. Người lớn mỗi ngày ăn 3 củ, trẻ em ăn 1- 2 củ… Tỏi đen có thể ăn trực tiếp hoặc ngâm rượu, ngâm mật ong.

Bà Trần Thị Trụ, Tiểu khu Ba Chè, thị trấn Thiệu Hóa cho biết, trước đây bà bị mất ngủ, huyết áp cao, tôi sử dụng tỏi đen được 1 năm nay và tôi thấy ngủ ngon hơn, huyết áp ổn định hơn. Ông Tạ Quốc Hương, xã Thiệu Công cho biết trước đây ông bị mỡ máu, tiểu đường, tôi sử dụng tỏi đen thường xuyên được 2 năm nay, nay kiểm tra thấy chỉ số đường huyết, mỡ máu đều ở ngưỡng cho phép. Ông duy trì ăn 3 củ tỏi đen mỗi ngày để phòng chống bệnh tật.

Tuy nhiên, đối với sản phẩm tỏi đen một số trường hợp được khuyên không nên sử dụng như: Phụ nữ mang thai; Những người có thể trạng nóng trong; Người mắc các bệnh về gan, thận, mắt không nên ăn quá nhiều; Người đang sử dụng thuốc chống đông máu hoặc có tiền sử dị ứng với tỏi thì không nên ăn; Người bị huyết áp thấp hoặc mắc bệnh tiêu chảy…

Hiện nay, sản phẩm tỏi đen SuZin của chị Loan đã được đăng ký mã vạch truy xuất nguồn gốc; mỗi tháng, chị sản xuất hơn 1 tấn tỏi tươi, cung cấp ra thị trường 5 đến 6 tạ sản phẩm tỏi đen. Đặc biệt là trong đợt dịch bệnh Covid -19 bùng phát, sản phẩm tỏi đen được nhiều gia đình lựa chọn để tăng sức đề kháng, phòng chống dịch. Sản phẩm tỏi đen SuZin của chị Loan đã được liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm với các siêu thị trên địa bàn các tỉnh Ninh Bình, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Đà Nẵng. Ngoài ra thị trường trong tỉnh được bày bán tại các của hàng tạp hóa, dược liệu và trên mạng xã hội face, zalo và các sàn giao dịch điện tử như shopee, lazada với mức giá 400.000đ/kg. Sản phẩm Tỏi đen đang hoàn thiện hồ sơ để được công nhận là sản phẩm OCOP cấp tỉnh.

Thanh Mai

Trung tâm Văn hóa, TT, TT và DL

NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HUYỆN THIỆU HÓA TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ LÃI SUẤT ĐỐI VỚI CÁC KHOẢN VAY

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 36/2022/NĐ-CP ngày 30/5/2022 về hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay tại Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), nguồn vốn cho vay, cấp bù lãi suất và phí quản lý để NHCSXH cho vay theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội.

Theo đó cùng ngày, Tổng Giám đốc NHCSXH đã ban hành văn bản số 4279/HD-NHCS về hướng dẫn thực hiện hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay tại NHCSXH theo Nghị định số 36/2022/NĐ-CP của Chính phủ.

Nghị định nêu rõ, khách hàng vay vốn được ngân sách Nhà nước hỗ trợ lãi suất khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau:

- Khách hàng vay vốn NHCSXH có các khoản vay có lãi suất trên 6%/năm và phát sinh giải ngân từ ngày 01/01/2022 đến ngày 31/12/2023 đáp ứng đầy đủ điều kiện được ngân sách nhà nước hỗ trợ lãi suất theo quy định và chưa hoàn thành việc tất toán khoản vay đến ngày 29/5/2022.

- Tổng nguồn vốn hỗ trợ lãi suất tối đa là 3.000 tỷ đồng.

- Mức hỗ trợ lãi suất cho khách hàng vay vốn là 2%/năm tính trên số dư nợ vay.

- Thời gian thực hiện hỗ trợ lãi suất từ ngày 01/01/2022 đến ngày 31/12/2023 hoặc khi NHCSXH thông báo kết thúc thực hiện hỗ trợ lãi suất theo Điểm g Khoản 2 Điều 10 Nghị định 36/NĐ-CP tùy theo thời điểm nào đến trước.

Nghị định nêu rõ, việc hỗ trợ lãi suất bảo đảm công khai, minh bạch, đúng đối tượng, đúng mục đích, tránh trục lợi chính sách. NHCSXH thực hiện hỗ trợ lãi suất đảm bảo đúng quy định, tạo thuận lợi cho khách hàng. Không thực hiện hỗ trợ lãi suất đối với dư nợ quá hạn hoặc được gia hạn nợ.

Về phương thức hỗ trợ lãi suất, định kỳ hằng tháng hoặc khi khách hàng vay vốn trả nợ, NHCSXH thực hiện tính số tiền hỗ trợ lãi suất của khoản vay và giảm trừ vào số tiền lãi phải trả của khách hàng vay vốn.

Đây là chính sách có ý nghĩa hết sức thiết thực và nhân văn của Đảng và Nhà nước, qua đó góp phần giúp khách hàng được tiếp cận vay vốn tín dụng chính sách xã hội, chung tay cùng khách hàng giảm bớt áp lực trong sản xuất kinh doanh, vượt qua giai đoạn khó khăn, phục hồi nền kinh tế sau đại dịch Covid-19.

Với tinh thần triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả, Phòng giao dịch NHCSXH huyện Thiệu Hóa xem đây là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu, tập trung tuyên truyền, niêm yết công khai chính sách đến các Điểm giao dịch xã, tuyên truyền chính sách đến toàn thể người dân trên địa bàn huyện. NHCSXH huyện Thiệu Hóa cũng đề nghị cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp tiếp tục quan tâm chỉ đạo hoạt động tín dụng chính sách xã hội nói chung, cũng như tuyên truyền hỗ trợ lãi suất từ NHCSXH, đảm bảo chính sách nhanh chóng đi vào cuộc sống.

Ngân hàng CSXH huyện Thiệu Hóa

LỊCHSỬ - VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT

NGUYÊN BÍ THƯ TỈNH ỦY THANH HÓA LÊ HUY TOÁN

Cụ Lê Huy Toán sinh năm 1890 tại làng Mao Xá, tổng Xuân Lai, phủ Thiệu Hóa (nay là thôn Toán Tỵ, xã Thiệu Toán, huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa).

Vốn sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, trọng văn sách, lễ nghĩa nên ngay từ nhỏ cụ Toán đã giác ngộ cách mạng, tham gia các phong trào thanh thiếu niên yêu nước ở địa phương. Chứng kiến dân tình chịu cảnh khổ cực, cụ quyết tâm nghiên cứu sách thuốc, học nghề chữa bệnh cứu người, đồng thời dạy chữ Hán cho con cháu trong làng. Cụ xông xáo tham gia các phong trào Thanh niên Cách mạng đồng chí hội, làm Bí thư Chi bộ Mao Xá, vận động quần chúng học chữ quốc ngữ; kiến nghị lên Viện dân biểu Trung Kỳ bãi bỏ dự án tăng thuế thân, thuế điều thổ; phong trào cải lương hương chính đưa người của cách mạng ứng cử vào các chức sắc của hội đồng ngũ hương làm tổng… Đến tháng 4/1940, cụ được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa kiêm Bí thư Chi bộ Mao Xá. “Cụ Toán chính là một trong những người hoạt động cách mạng đầu tiên của tỉnh Thanh Hóa, luôn luôn bám trụ cơ sở, cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân. Đây chính là điểm dân mến, dân tin ở cụ”, ông Lê Xuân Lối, nguyên Bí thư Đảng ủy xã Thiệu Toán kể lại. Sau khi được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, cụ và gia đình nằm trong tầm ngắm của địch. Đến tháng 9/1941, cụ bị địch bắt giam tại nhà tù Thanh Hóa và kết án 20 năm tù khổ sai cho đi đày biệt xứ tại Trường Xanh (nơi giam giữ những người đã thành án). Sau một thời gian ở tù bị tra tấn, ngày 05/4/1942, cụ hi sinh tại nhà tù Thanh Hóa, đúng vào thời điểm kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn ác liệt.

Để tưởng nhớ những người đã khuất, tháng 12/1954 chính quyền cách mạng bố trí lại đơn vị hành chính đã đổi phủ Thiệu Hóa thành huyện Thiệu Hóa, thành lập nên 12 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có xã Huy Toán mang tên ông, xã Huy Toán gồm 4 làng: Mao Xá, Hố Kỳ, Cựu Thôn và Thung Dung. Việc đặt tên xã Huy Toán có ý nghĩa lịch sử to lớn, tôn vinh những đóng góp lớn lao của liệt sỹ, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Lê Huy Toán đối với làng với xã nói riêng, xứ Thanh nói chung”, ông Lê Xuân Lối - nguyên Bí thư đảng ủy xã Thiệu Toán tự hào cho biết.

Ban Biên tập

TÔI YÊU ĐẤT NƯỚC TÔI

Tôi yêu Đất nước của tôi

Bao la đồng lúa, ngát đồi chè xanh
Từ nông thôn đến thị thành
Người dân đôn hậu, hiền lành mến yêu.

Tôi yêu những buổi chiều chiều
Vi vu tiếng sáo cánh diều bay cao
Tôi yêu từng cái bờ ao
Mùa hè tắm mát ta trao nụ cười.

Biển Đông xanh tận chân trời
Từng đoàn tàu cá ra khơi rộn ràng
Triều lên sóng biển mênh mang
Bình minh tàu đã đầy khoang cá ngừ.

Tôi yêu Đất nước vào thu
Bầu trời xanh thắm, lời ru ngọt ngào
Đêm rằm Tháng Tám rước sao
Bao nhiêu kỷ niệm tràn vào tuổi thơ.

Tôi yêu trái mận, trái mơ
Sầu riêng, măng cụt, trái bơ, trái xoài.
Tôi yêu cả dáng áo dài
Nghiêng nghiêng vành nón bóng ai đợi chờ!

Tôi yêu tiếng hát, lời thơ
Ngàn năm thương nhớ bao giờ cho nguôi!
Tôi yêu giọng nói tiếng cười
Và yêu Đất nước, con người Việt Nam.

Đức Trung
08-03.png

Bản tin nội bộ Tháng 8 năm 2022

Đăng lúc: 31/08/2022 (GMT+7)
100%

Tài liệu dùng cho sinh hoạt chi bộ hằng tháng.

08-01.png

HƯỚNG DẪN - CHỈ ĐẠO

“TRÍCH” NGHỊ QUYẾT SỐ 10-NQ/HU NGÀY 17/6/2022 CỦA BAN THƯỜNG VỤ HUYỆN ỦY“VỀ TĂNG CƯỜNG,NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG MA TÚY”

Ban Thường vụ Huyện ủy ban hành Nghị quyết số 10-NQ/HU ngày 17/6/2022 về “Tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống ma túy”, nội dung cơ bản như sau:

I. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU

1. Quan điểm

- Công tác phòng, chống và kiểm soát ma tuý phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của các cấp uỷ, sự quản lý thống nhất của chính quyền các cấp, sự tham gia của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó, lực lượng Công an nhân dân là nòng cốt.

- Kết hợp chặt chẽ giữa phòng và chống, chú trọng công tác cai nghiện tập trung và quản lý người nghiện ngoài xã hội không để người nghiện gây ra các vụ phạm tội.

- Xác định công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, thường xuyên, liên tục, lâu dài. Thường xuyên nắm tình hình và chỉ đạo thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp được đề ra trong Chiến lược quốc gia phòng, chống và kiểm soát ma tuý Việt Nam định hướng đến năm 2030.

2. Mục tiêu

- Triển khai đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các giải pháp phòng, chống ma túy và cai nghiện ma túy. Kiểm soát, làm giảm tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn theo 03 mục tiêu:chặn cung - giảm cầu - giảm tác hại.

- Nâng cao hiệu quả công tác cai nghiện và quản lý sau cai, làm giảm số người nghiện ma tuý mới. Quản lý chặt chẽ người nghiện ngoài xã hội, không để phát sinh tội phạm và các vấn đề phức tạp, góp phần xây dựng môi trường xã hội an toàn, lành mạnh.

- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục các kiến thức phòng, chống ma túy với các hình thức, thời lượng và nội dung phù hợp. Phòng, chống và kiểm soát hiệu quả tội phạm và tệ nạn ma túy; đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả các vụ mua bán, tàng trữ, vận chuyển, tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về ma túy.

- Phấn đấu đến năm 2025 có ít nhất 20% xã, thị trấn giảm mức độ phức tạp về ma túy so với năm 2021, mỗi năm giảm 05% số người nghiện về ma túy có hồ sơ quản lý đưa ra khỏi diện, 100% người nghiện phải có hồ sơ quản lý và được tiếp cận dịch vụ tư vấn điều trị cai nghiện. Từ năm 2022 đến năm 2025 mỗi năm số vụ phát hiện, đấu tranh với tội phạm về ma túy tăng 10%, số vụ có tính chất nghiêm trọng trở lên tăng 5%, mỗi năm triệt xóa 50% số điểm hoạt động phạm tội về ma túy, không để hình thành các tụ điểm, điểm ma túy mới, hạn chế mức thấp nhất việc phát sinh người nghiện mới.

II. NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP

1.Tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống ma tuý, trọng tâm là Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 16/8/2019 của Bộ Chính trị về tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác phòng chống và kiểm soát ma tuý, Luật phòng chống ma túy năm 2021 và các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Phòng, chống ma túy; Đề án Nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh với tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2021 - 2025 (ban hành theo Quyết định số 272/QĐ-UBND ngày 21/01/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa).

2.Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, quyết liệt công tác phòng, chống ma túy và cai nghiện ma túy. Đưa nội dung lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống ma túy vào chương trình công tác thường xuyên của cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị và coi đây là một nhiệm vụ trọng tâm để tập trung thực hiện thường xuyên. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cơ sở, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện công tác phòng, chống và cai nghiện ma túy và chịu trách nhiệm trước Ban Thường vụ Huyện ủy nếu để tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn, lĩnh vực quản lý diễn biến phức tạp, gây bức xúc trong Nhân dân.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiên quyết xử lý đối với cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống ma túy; xử lý nghiêm đối với cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật về phòng, chống ma túy.

3.Thường xuyên tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền phòng, chống ma túy, trọng tâm là công tác giáo dục, thuyết phục, chú trọng đổi mới, đa dạng nội dung, hình thức tuyên truyền. Lấy gia đình, dòng họ, cơ quan, trường học, thôn, tiểu khu, xã, thị trấn... làm cơ sở nòng cốt để tuyên truyền, giáo dục, phòng ngừa tội phạm và tệ nạn ma túy.

4.Đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, lồng ghép công tác phòng, chống ma túy với các cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới; chuyển hóa, xây dựng địa bàn có ma túy thành xã, thị trấn lành mạnh, không có tệ nạn ma túy. Xây dựng và nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến về phòng, chống ma túy; kịp thời động viên, khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích trong công tác đấu tranh phòng, chống ma tuý và cai nghiện ma túy. Quan tâm chế độ chính sách đối với cán bộ làm công tác chuyên trách, bán chuyên trách và những người không hưởng lương từ ngân sách nhà nước tham gia công tác phòng, chống ma túy và cai nghiện ma túy, nhất là cấp xã, thị trấn.

5.Thường xuyên chỉ đạo duy trì tấn công, trấn áp tội phạm về ma túy, triệt xóa các điểm phức tạp về mà túy; tập trung đấu tranh, ngăn chặn tình trạng mua bán, tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, nhất là ma túy tổng hợp từ các huyện, tỉnh thành khác đến địa bàn. Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với tội phạm về ma túy, đảm bảo nghiêm minh, đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm. Phát hiện ngăn chặn kịp thời có hiệu quả, không để xảy ra việc trồng cây có chứa chất ma túy trên địa bàn.

6.Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác cai nghiện ma túy và quản lý sau cai nghiện; trọng tâm là công tác xác định tình trạng nghiện, vận dụng linh hoạt các giải pháp nâng cao hiệu quả biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, gắn với công tác cai nghiện tự nguyện tại gia đình, cộng đồng với cai nghiện tại cơ sở cai nghiện công lập. Áp dụng triệt để biện pháp điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế Methadone nhằm giảm nguồn cầu vào địa bàn; quan tâm hỗ trợ người nghiện ma túy sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng bền vững, giảm tỉ lệ tái nghiện.

7.Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với công tác phòng, chống ma túy và cai nghiện ma túy. Kiểm soát chặt chẽ các loại tiền chất ma túy, chất gây nghiện, chất hướng thần. Chỉ đạo cơ quan chức năng xây dựng các kế hoạch để thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp phòng, chống ma tuý trên địa bàn huyện. Kịp thời củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng bộ máy, đội ngũ cán bộ chuyên trách phòng, chống ma túy, Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội, phòng chống AIDS và xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc các cấp.

8.Đảng ủy Công an huyện, Chi bộ đảng Viện kiểm sát nhân dân huyện, Tòa án nhân dân huyện chỉ đạo tăng cường phối hợp trong công tác lập hồ sơ xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; phát hiện, bắt giữ, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án các vụ án ma tuý; xét chọn án điểm; hạn chế việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, xét giảm án đối với tội phạm liên quan đến ma túy.

9.Định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết công tác phòng, chống ma túy và cai nghiện ma túy, đánh giá đúng thực trạng tình hình, kết quả đạt được, rút ra những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm và đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống ma túy và cai nghiện ma túy trong thời gian tiếp theo. Có chính sách khuyến khích và kịp thời biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc, đồng thời nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến trong công tác phòng, chống ma túy, cai nghiện ma túy.

III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1.Các ban, ngành, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội huyện, Đảng ủy các xã, thị trấn tổ chức quán triệt, phổ biến sâu rộng nội dung của Nghị quyết này; đồng thời xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện tại địa phương, cơ quan, đơn vị.

2.Ban Tuyên giáo Huyện ủy xây dựng kế hoạch, hướng dẫn việc học tập, quán triệt nghị quyết và chỉ đạo, định hướng các cơ quan chức năng, các đơn vị trong khối tuyên truyền trên địa bàn huyện đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến Nghị quyết và kết quả thực hiện trên địa bàn huyện.

3.Ban Dân vận Huyện ủy chủ trì, phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội huyện đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên và các tầng lớp Nhân dân trong huyện thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước đối với công tác phòng, chống ma túy.

4.Văn phòng Huyện ủy phối hợp với Đảng ủy Công an huyện, các ban của Huyện ủy và các đơn vị liên quan theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, giám sát, tổng hợp kết quả việc thực hiện Nghị quyết, báo cáo Ban Thường vụ Huyện ủy để chỉ đạo.

Ban Biên tập

08-02.png
TIN TỨC -
SỰ KIỆN NỔI BẬT

TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI, QUỐC PHÒNG - AN NINH, CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ THÁNG 8 NĂM 2022

Tình hình kinh tế - xã hội

- Sản xuất nông nghiệp:Lãnh đạo, chỉ đạo chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh bảo vệ cây trồng vụ Thu mùa năm 2022. Chỉ đạo các xã, thị trấn phát triển chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học, đảm bảo an toàn phòng dịch bệnh, đảm bảo nguồn cung thực phẩm.

- Công tác xây dựng nông thôn mới và sản phẩm OCOP:Tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện các tiêu chí xây dựng xã NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu. Làm việc với các công ty nước sạch trên địa bàn nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc triển khai và sử dụng nước sạch trong Nhân dân. Tổ chức đánh giá, chấm điểm sản phẩm OCOP cho 06 sản phẩm.

- Sản xuất công nghiệp - xây dựng và dịch vụ thương mại:Giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 248,8 tỷ đồng, tăng 15,5% CK. Chỉ đạo hoàn thiện Quy hoạch các Đô thị: Giang Quang, Phú Hưng, Đông Đô, Cụm công nghiệp Hậu Hiền, cụm công nghiệp Ngọc Vũ và cụm công nghiệp Vạn Hà số 2…

Trong tháng 8 thành lập mới 10 doanh nghiệp, nâng số doanh nghiệp thành lập mới từ đầu năm đến nay lên 49 doanh nghiệp, đạt 89% KH. Đến nay, vốn đầu tư công tỉnh ước giải ngân 24/102,1 tỷ đồng, đạt 24%; vốn đầu tư ngân sách huyện ước thực hiện giải ngân 158,1/369,7 tỷ đồng, đạt 43,4%; vốn đầu tư ngân sách xã ước thực hiện giải ngân 37,13/75 tỷ đồng, đạt 50%.

-Công tác thu, chi ngân sách và quản lý tài nguyên, môi trường:Thu ngân sách tháng 8 đạt 66,4 tỷ đồng, lũy kế 8 tháng 465,9 tỷ đồng, đạt 134% dự toán huyện giao; gấp 2,05 lần dự toán tỉnh giao. chi ngân sách địa phương cơ bản đáp ứng nhu cầu thực hiện nhiệm vụ trên các lĩnh vực.

Cấp 138 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu và giải quyết tồn đọng đất đai. Triển khai các hoạt động hưởng ứng Tuần lễ Quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường năm 2022.

- Lĩnh vực Văn hóa thông tin, thể dục thể thao:Tập trung tuyên truyền kỷ niệm 77 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 02/9; 77 năm ngày truyền thống Công an Nhân dân; 92 năm ngày truyền thống ngành Tuyên giáo; tuyên truyền tiêm chủng vắc xin Covid-19 cho các nhóm đối tượng; xây dựng hoàn thiện 04 chương trình bản tin truyền hình Thiệu Hóa.

-Lĩnh vực Giáo dục và Đào tạo: Chỉ đạo tổng kết năm học 2021-2022, triển khai nhiệm vụ năm học 2022-2023. Xây dựng kế hoạch bố trí, sắp xếp cán bộ quản lý, giáo viên các cấp phù hợp với thực tiễn. Chỉ đạo rà soát, kiểm tra chuẩn bị cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ năm học mới.

- Lĩnh vực y tế:Chỉ đạo các cơ sở y tế thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho Nhân dân; Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 trong tình hình mới; tuyên truyền phòng các loại dịch bệnh phát sinh ở mùa hè, công tác quản lý vệ sinh ATTP được đảm bảo.

- Lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội:Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách an sinh xã hội. Công tác giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động và đào tạo nghề cho lao động nông thôn tiếp tục được quan tâm.

Công tác quốc phòng - an ninh

- Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn huyện cơ bản ổn định. Tổ chức thành công diễn tập PCLB-TKCN cấp huyện với thực binh tình huống chống tràn đê và thực binh Cứu hộ, cứu nạn. Tổ chức thành công diễn tập chiến đấu xã trong khu vực phòng thủ cho 7 xã(Tân Châu, Thiệu Trung, Thiệu Giao, Thiệu Ngọc, Thiệu Thành, Thiệu Công, Thiệu Tiến)năm 2022.

- Lực lượng công an từ huyện đến cơ sở tổ chức thực hiện nghiêm túc các nhiệm vụ, giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Chỉ đạo tổ chức thành công Ngày hội “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” năm 2022 cấp huyện và tại các xã, thị trấn. Trong tháng, lực lượng Công an đã phát hiện, xử lý 07 vụ việc, tăng 01 vụ so với tháng 7/2022; xử lý 24 trường hợp vi phạm trật tự ATGT.

Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội

-Công tác giáo dục chính trị tư tưởng: Tổ chức giám sát việc lãnh đạo, tổ chức thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW gắn với thực hiện Kết luận 21 tại Đảng bộ xã Thiệu Lý, Thiệu Công và Chi bộ BHXH huyện. Chỉ đạo xây dựng báo cáo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW của BCH TW Đảng (khóa X); sơ kết 05 năm thực hiện Chỉ thị số 07-CT/TW ngày 05/9/2016 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa XII); sơ kết 05 năm thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW ngày 05/9/2016 của Ban bí thư Trung ương Đảng (khóa XII). Tổ chức hội nghị bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới; tổ chức lớp nhận thức về Đảng, lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho viên mới...

-Công tác tổ chức,cán bộ: Thực hiện quy trình bổ nhiệm, bổ nhiệm lại chức vụ lãnh đạo, quản lý khối trường học; thỏa thuận bổ nhiệm lại Hiệu trưởng trường THPT Thiệu Hóa. Hoàn thành rà soát, bổ sung quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp theo quy định. Lãnh đạo hoàn thành công tác chỉ đạo Đại hội chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở nhiệm kỳ 2022-2025. Chỉ đạo cử cán bộ đi học lớp trung cấp lý luận chính trị hệ tập trung năm 2022. Hoàn chỉnh hồ sơ xét Huy hiệu Đảng đợt 02/9/2022 cho 190 đồng chí.

- Công tác kiểm tra, giám sát:Tổ chức giám sát thường xuyên theo quy định của Điều lệ Đảng và nhiệm vụ kiểm tra do cấp ủy giao; chỉ đạo tổ chức đảng có liên quan thực hiện quy trình kiểm điểm đảng viên vi phạm tại Đảng bộ xã Thiệu Toán. Tiến hành thẩm định đánh giá, xếp loại viên chức lãnh đạo, quản lý khối trường học để thực hiện quy trình trong công tác cán bộ theo quy định. Tiếp tục chỉ đạo việc xem xét, giải quyết đơn thư theo thẩm quyền.

- Công tác dân vận:Tập trung nắm tình hình, tâm tư nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và quần chúng Nhân dân, tình hình tôn giáo trên địa bàn huyện. Phối hợp tổ chức Hội nghị tuyên truyền, tập huấn công tác dân vận khéo trong xây dựng nông thôn mới nâng cao, nông thôn mới kiểu mẫu tại xã Thiệu Nguyên. Tổ chức kiểm tra kết quả triển khai, thực hiện Kết luận số 610-KL/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy tại Đảng bộ xã Thiệu Hợp và xã Thiệu Ngọc. Chỉ đạo xây dựng mô hình “Chính quyền thân thiện vì nhân dân phục vụ”...

-Hoạt động của HĐND - UBNDhuyện:Đôn đốc các ngành giải quyết các ý kiến, kiến nghị của cử tri, giám sát việc thực hiện các nghị quyết, các chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung điều hành quyết liệt, bám sát các mục tiêu, chỉ tiêu theo kế hoạch. Chỉ đạo chăm sóc phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng vụ Thu mùa; tăng cường công tác tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho các nhóm đối tượng; đẩy nhanh tiến độ GPMB, tiến độ xây dựng các công trình, dự án; quan tâm đối thoại, giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội:Tập trung tuyên truyền, vận động hội viên, đoàn viên, Nhân dân tích cực thi đua lao động sản xuất, xây dựng NTM nâng cao, kiểu mẫu; chú trọng xây dựng sản phẩm OCOP. Thường xuyên duy trì công tác tổng vệ sinh môi trường; phát động phong trào xây dựng mô hình khu dân cư“Sáng - xanh - sạch - đẹp - an toàn”,“Camera an ninh”, “Khu dân cư an toàn làm chủ”; “Khu dân cư không có tội phạm, TNXH”;tổ chức gắn biển tên đường và đánh số nhà trên địa bàn của các thôn; vận động Nhân dân hiến trên 13.500m2đất hiến đất để mở rộng đường, nâng cấp, chỉnh trang cảnh quan môi trường. Triển khai Kế hoạch vận động kinh phí hỗ trợ làm nhà ở cho hộ nghèo trên địa bàn huyện năm 2022. Đoàn thanh niên chỉ đạo tổ chức tổng kết hoạt động hè 2022. Hội cựu chiến binh huyện vận động hỗ trợ cho 01 hội viên gặp khó khăn về nhà ở với số tiền 20 triệu đồng. Hội Nông dân phối hợp công nhận sản phẩm lúa Vietgap tại xã Thiệu Duy. Liên đoàn lao động huyện triển khai giai đoạn 2 Chương trình “01 triệu sáng kiến - nỗ lực vượt khó, sáng tạo, quyết tâm chiến thắng đại dịch Covd-19”. Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện phối hợp tổ chức các lớp tập huấn phân loại rác thải tại hộ gia đình, trao 02 bê vàng cho 02 hội viên khó khăn trị giá 28,5 triệu đồng.

Trịnh Văn Đệ

Chánh Văn phòng Huyện ủy

KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH PHỐI HỢP KHUYẾN HỌC, KHUYẾN TÀI CỦA HỘI KHUYẾN HỌC VỚI MTTQ, CÁC ĐOÀN THỂ HUYỆN, GIAI ĐOẠN 2017- 2021

Việc triển khai thực hiện chương trình phối hợp khuyến học, khuyến tài xây dựng xã hội học tập, giai đoạn 2017 - 2021 với Ủy ban MTTQ, các đoàn thể, có nhiều yếu tố thuận lợi; đặc biệt, ngày 10/5/2019 Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Kết luận số 49-KL/TW tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 11-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa X) “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập”; Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 14/CT-TTg “Về đẩy mạnh công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021 - 2026” và Quyết định số 489/QĐ-TTg, ngày 8/4/2020 thực hiện Kết luận 49 của Ban Bí thư; Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch số 164-KH/TU, ngày 15/8/2019; Chủ tịch UBND ban hành Kế hoạch 174/KH-UBND, ngày 18/8/2020, thực hiện Kết luận số 49-KL/TW của Ban Bí thư. Trong đó phải kể đến các văn bản chỉ đạo như Kế hoạch số 30- KH/HU của Huyện ủy, Kế hoạch số 795-KH/UBND ngày 22/12/2020 của UBND huyện Thiệu Hóa chỉ đạo các Đảng ủy, UBND xã, thị trấn và các cơ quan đơn vị đóng trên địa bàn huyện thực hiện nghiêm túc kết luận 49-KL/TW, Quyết định 489-QĐ TTg của Thủ tướng Chính phủ, KH 164-KH/TU của Thường vụ Tỉnh ủy và 174-KH/UBND của UBND tỉnh về công tác khuyến học khuyến tài. Công văn số 130/CV/BTGHU ngày 22/12/2021 của Ban Tuyên giáo huyện ủy về “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối với công tác khuyến học khuyến tài, XDXHHT” Các kết luận, chỉ thị, quyết định, kế hoạch nêu trên đã xác định những quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp công tác khuyến học, khuyến tài xây dựng xã hội học tập trong giai đoạn mới.

Tuy nhiên, trong 5 năm qua, công tác khuyến học, khuyến tài cũng gặp không ít khó khăn, như: lũ lụt, dịch bệnh, nhất là đại dịch covid 19; mặt khác, hầu hết đội ngũ cán bộ Hội Khuyến học cơ sở và một số lãnh đạo Ủy ban MTTQ, các đoàn thể thay đổi; nên ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện chương trình phối hợp.

Bám sát chương trình phối hợp trong cả giai đoạn đã ký kết, hàng năm các bên đã cụ thể hóa bằng kế hoạch thực hiện sát hợp với chức năng nhiệm vụ và tính chất hoạt động của đơn vị mình, tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm và triển khai nhiệm vụ năm tiếp theo. Việc thực hiện chương trình phối hợp đã được cấp ủy, lãnh đạo Ủy ban MTTQ, các đoàn thể quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nên cơ bản đạt được những mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Đáng quan tâm là công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học được gắn với việc thực hiện và đánh giá thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên. Đánh giá việc thực hiện Chương trình phối hợp, kết quả nổi bật như sau:

1. Công tác tuyên truyền, phổ biến các quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ của Đảng, chính sách pháp của Đảng, Nhà nước; Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo, khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập cho cán bộ, đoàn viên, hội viên, công chức, viên chức, chiến sĩ và nhân dân, được triển khai đồng bộ với nhiều hình thức phong phú, khai thác tối đa các điều kiện, phương tiện truyền thông của đơn vị cho công tác tuyên truyền. Do vậy đã tạo được chuyển biến rõ nét về nhận thức đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, công chức, viện chức, chiến sĩ và người lao động.

2. Số lượng, chất lượng tổ chức, hội viên, đội ngũ cán bộ Hội Khuyến học được nâng lên; một số đơn vị Ban Khuyến học đã phát huy được vai trò trách nhiệm tham mưu và làm nòng cốt trong công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập ở cơ quan và trong hệ thống; số tổ chức hội hoạt động xuất sắc đạt tỷ lệ cao.

3. Phong trào học tập thường xuyên, học tập suốt đời được phát động trong cán bộ, đoàn viên, hội viên, công chức, viên chức và nhân dân; một số đơn vị đã quan tâm, tạo điều kiện thời gian, hỗ trợ tài chính cho cán bộ công chức, viên chức, người lao động học tập, nghiên cứu khoa học, phát huy sáng kiến, kinh nghiệm; phong trào học tập đã góp phần nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của cán bộ công chức, viên chức, chiến sĩ, người lao động. Cùng với việc đẩy mạnh phong trào học tập trong đơn vị, Ủy ban MTTQ, các đoàn thể đã có những đóng góp tích cực trong việc xây các mô hình học tập trong gia đình, dòng họ, cộng đồng, đơn vị; nhiều gia đình cán bộ, đoàn viên, hội viên, công chức, viên chức, người lao động đạt “gia đình học tập”. Các đơn vị đã tổ chức nhiều hoạt động học tập tại Trung tâm học tập cộng đồng như đào tạo, chuyển đổi nghề, triển khai các dự án xóa đói giảm nghèo, chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật, phổ biến kinh nghiệm sản suất, kinh doanh, các hoạt động văn hóa thể thao, nâng cao chất lượng cuộc sống; phối hợp tổ chức có hiệu quả các hoạt động hỗ trợ giáo dục trong trường học nhất là hỗ trợ cơ sở vật chất, phương tiện dạy và học (đối với ngành GDĐT chỉ đạo,tổ chức đẩy mạnh hoạt động của TTHTCĐ theo tinh thần cần gì học nấy, hỗ trợ giáo dục trong và ngoài nhà trường rất hiệu quả).

4. Việc xây dựng và phát triển Quỹ khuyến học, khuyến tài được quan tâm, nhiều đơn vị có cách làm thiết thực và hiệu quả, vừa vận động cán bộ, đoàn viên, hội viên, công chức, viên chức, chiến sĩ, người lao động; vừa vận động các nhà hảo tâm, các doanh nghiệp đóng góp xây dựng quỹ hoặc trực tiếp trao thưởng cho con em trong đơn vị, học sinh có hoàn cảnh khó khăn vươn lên học tốt và thi đỗ đại học; cán bộ, đoàn viên, hội viên công chức, chiến sĩ có thành tích trong nghiên cứu khoa hoc, trong học tập,.v.v. Quỹ khuyến học, khuyến tài, đã có tác dụng thiết thực động viên cán bộ, đoàn viên, hội viên, công chức, viên chức, chiến sĩ, người lao động tích cực nghiên cứu khoa học, ứng dụng vào công tác, học tập nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, động viên con em cán bộ, công chức và nhâm dân vươn lên học tập, công tác tốt hơn.

Tóm lại, việc thực hiện chương trình phối hợp giữa Hội Khuyến học với Ủy ban MTTQ, các đoàn thể chính trị, phòng GDĐT, LLVT, các Hội đặc thù, trung tâm Văn hóa, Thông tin, Thể thao và Du lịch huyện trong 5 năm qua đã đạt nhiều kết quả, tạo được chuyển biến mới trong nhận thức; chất lượng công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập trong cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, công chức, viên chức, chiến sĩ và nhân dân được nâng lên; đã thiết thực góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và phát triển đơn vị ngày càng vững mạnh và tham gia tích cực vào việc phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo; đào tạo nghề, đào tạo nguồn nhân lực, phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn; xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh; bảo vệ môi trường, xây dựng gia đình hạnh phúc trên địa bàn huyện nhà; Trong 5 năm qua, Hội khuyến học huyện đã được khen tập thể:

  • 2 lần nhận cờ thi đua xuất sắc của TW Hội KHVN (2016-2021);
  • 2 bằng khen của UBND tỉnh;
  • 3 bằng khen của TW Hội;
  • Nhiều cơ sở HKH và cá nhân đã được tặng Bằng khen, giấy khen của các cấp, các ngành.

Phát huy kết quả, thành tích đã đạt được 5 năm qua, trong thời gian tới, Hội Khuyến học huyện tiếp tục ký Chương trình phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, cơ quan trong huyện về công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, góp phần tích cực thực hiện mục tiêu của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XX về đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, xây dựng quê hương Thiệu Hóa giàu đẹp, văn minh.

Nguyễn Bá Huệ

Chủ tịch Hội Khuyến học huyện

BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNGCỦAĐẢNG,ĐẤU TRANH PHẢN BÁCCÁC QUAN ĐIỂMSAI TRÁI THÙ ĐỊCH

LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI VỀ XÂY DỰNG

NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN VIỆT NAM

Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN được xác định là nội dung trọng tâm của đổi mới chính trị tại Việt Nam. Thời gian qua, các cơ quan chức năng đã tích cực thảo luận, lấy ý kiến đóng góp để hoàn thiện Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”.

Tuy nhiên, với mưu đồ chống phá, nhiều đối tượng xấu đã xuyên tạc, công kích, đưa ra các bài viết làm sai lệch bản chất vấn đề. Một số bài viết cho rằng đã là nhà nước pháp quyền thì không thể đi đôi với XHCN, đưa ra “kiến nghị” đòi bỏ nội dung XHCN trong đề án xây dựng nhà nước pháp quyền.

Thậm chí, một số người nhân danh cấp tiến, đổi mới để vu cáo rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam hiện “đứng trên pháp luật” nên không thể có nhà nước pháp quyền; cho rằng việc đưa ra định hướng XHCN chỉ để mang lại lợi ích cho Đảng chứ không phải vì lợi ích quốc gia, dân tộc; việc đặt đề án xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là nhằm che đậy cho bản chất độc tài của chế độ… Những luận điệu trên thể hiện rõ ý đồ chống phá chế độ, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Ngược dòng lịch sử, tư tưởng về nhà nước pháp quyền xuất hiện từ sớm, gắn với các nhà tư tưởng nổi tiếng như Socrates (469-399 Tr.CN), Aristoteles (384-322 Tr.CN), Cicero (l06-43 Tr.CN), John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 - 1755), Jean Jacques Rousseau (1712 - 1778), I.Kant (1724 - 1804), Hegel (1770 - 1831) v.v… Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng và thực thi một nền dân chủ, đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân.

Những yếu tố cơ bản để xây dựng một nhà nước pháp quyền là xã hội có dân chủ, đất nước có một hệ thống pháp luật đầy đủ và mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Nhà nước pháp quyền vừa là một giá trị chung của nhân loại, vừa là một giá trị riêng của mỗi một dân tộc, quốc gia. Tuỳ thuộc vào đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển mà các quốc gia khác nhau sẽ xây dựng một mô hình nhà nước pháp quyền cụ thể một cách thích hợp.

Tại Việt Nam, mô hình mà chúng ta lựa chọn là nhà nước pháp quyền XHCN. Điều này đã được ghi nhận cụ thể tại khoản 1, Điều 2 Hiến pháp 2013: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là hoàn toàn phù hợp cả về mặt lý luận và thực tiễn.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Như vậy, đây là bộ máy quyền lực của chính quần chúng nhân dân lao động, phục vụ lợi ích của đại đa số người dân trong xã hội.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Tại Việt Nam, Đảng, Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức có nghĩa vụ và trách nhiệm tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân. Mọi hành vi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách dịch, cửa quyền đều kiên quyết bị xử lý.

Trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo không có nghĩa là “đứng trên pháp luật”, “không tuân thủ pháp luật” như những gì các đối tượng xấu cố tình bôi nhọ. Tất cả các tổ chức của Đảng và đảng viên đều phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật tuỳ theo tính chất, mức độ, hậu quả sẽ bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật.

Việc Việt Nam xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là phù hợp với mong muốn, nguyện vọng của nhân dân. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”.

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, chúng ta đã đạt được những kết quả tích cực trên tất cả các lĩnh vực. Sau 35 năm thực hiện đổi mới, kinh tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao (khoảng 6%/năm), cơ cấu kinh tế thay đổi theo chiều hướng tích cực, tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Môi trường hoà bình, ổn định được giữ vững, là tiền đề quan trọng để đất nước phát triển. Công tác xóa đói giảm nghèo được triển khai mạnh mẽ, tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều của cả nước đã giảm bình quân trên 1,4%/năm giai đoạn 2016 - 2020. Lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục cũng đạt được nhiều thành tựu. Trong quan hệ quốc tế, vị thế của Việt Nam ngày càng tăng cao và được bầu giữ nhiều vị trí quan trọng trong các tổ chức quốc tế. Đây là những minh chứng rõ ràng khẳng định Việt Nam đang phát triển đúng hướng.

Quá trình phát triển cũng bộc lộ những hạn chế, khiếm khuyết, trong đó có vấn đề tham nhũng, suy thoái, những hiện tượng tiêu cực trong đời sống văn hóa, xã hội còn diễn biến phức tạp, nhiều vấn đề tồn tại kéo dài khiến dư luận bức xúc, ảnh hưởng tới sự uy nghiêm của luật pháp và niềm tin của người dân vào thể chế. Tuy nhiên, những tồn tại đó có nguyên nhân khách quan, chủ quan, nhất là trong điều kiện đất nước hội nhập, mở cửa, luật pháp chưa đầy đủ, còn những kẽ hở bị lợi dụng; công tác quản lý Nhà nước còn những yếu kém, còn tình trạng cán bộ, đảng viên suy thoái, nhũng nhiễu.

Vấn đề là Đảng, Nhà nước ta nghiêm túc nhìn nhận hạn chế, thiếu sót, đưa ra các giải pháp trước mắt và lâu dài để chấn chỉnh, đặc biệt là việc xây dựng Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”. Vì vậy, không có lý do gì để các đối tượng tự xưng “nhà dân chủ” để giở trò “đâm bị thóc, chọc bị gạo”, xuyên tạc tình hình, bôi nhọ Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Ban Biên tập

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

Cách mạng Tháng Tám giành thắng lợi cách đây 77 năm là dấu mốc lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam thời hiện đại. Vậy mà, những phần tử cơ hội, xét lại trong và ngoài nước, đặc biệt cái gọi là đảng Việt Tân lại cố tình phủ nhận thành quả vĩ đại ấy của dân tộc ta. Chúng cho rằng “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sai lầm lịch sử”, “là đi ngược lại sự bảo hộ của mẫu quốc”, “là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam”... Đây là những luận điệu xuyên tạc trắng trợn của những kẻ thiếu lương tri...quên đi “vết nhơ” của lịch sử dân tộc ta đã phải chịu cảnh nô lệ, lầm than hơn 80 năm.

Năm 1858, thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp nước ta, áp bức đồng bào ta, khiến dân tộc ta mất quyền độc lập, nhân dân ta phải chịu cảnh nước mất, nhà tan,“một cổ hai tròng”. Thực dân Pháp không cho dân ta bất cứ quyền tự do dân chủ nào; bóc lột nhân dân ta đến tận xương tủy, thẳng tay chém giết những người yêu nước, dìm những cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta trong bể máu... Từ năm 1940, trước sự xâm lăng của phát xít Nhật vào Đông Dương và Việt Nam, đã bao lần Việt Minh kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Vậy mà, chẳng những thực dân Pháp không đáp ứng, lại thẳng tay đàn áp Việt Minh và quỳ gối đầu hàng, bán nước ta cho phát xít Nhật, làm cho nhân dân ta phải chịu hai tầng xiềng xích...

Luận điệu cho rằng Cách mạng Tháng Tám là “nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam” thì quả là sự vu khống và xuyên tạc lịch sử. Bởi lẽ, sau khi Nhật hàng đồng minh, Vua Bảo Đại thoái vị, nhân dân ta giành được chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa được bao lâu, thì ngày 23-9-1945, thực dân Pháp quay trở lại cướp nước ta một lần nữa. Trước tình thế đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện nhiều chính sách để gìn giữ hòa bình, tránh “cuộc chiến tranh đổ máu vô nghĩa”. Nhưng “chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”. Với tinh thần “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, quân và dân ta đã trường kỳ kháng chiến và giành thắng lợi to lớn trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”. Với bản chất hiếu chiến, phản động, thực dân Pháp đã cấu kết và “bật đèn xanh” cho đế quốc Mỹ nhảy vào xâm lược Việt Nam và Đông Dương, buộc nhân dân ta phải tiếp tục chiến đấu bảo vệ nền độc lập dân tộc và con đường phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) do Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta xác định từ năm 1930. Và con đường cách mạng chân chính ấy đã đưa nước ta đến thắng lợi vẻ vang vào ngày 30-4-1975, thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lênCNXH. Như vậy, chính sự hiếu chiến xâm lược của bọn thực dân, đế quốc là nguyên nhân dẫn đến hai cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta, chứ không phải Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là “nguyên nhân dẫn đến hai cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam” như bọn phản động xuyên tạc.

Về vai trò lãnh đạo và nguyên nhân thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, chúng cho rằng “đó là sự ăn may, vì Nhật thua trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chứ Đảng Cộng sản Việt Nam chẳng có tài cán gì”; rằng “do khoảng trống quyền lực, nên Việt Nam dễ giành được kết quả nhanh chóng”... Thực chất, luận điệu ấy là chúng muốn phủ nhận vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với vận mệnh dân tộc Việt Nam, phủ nhận khối đại đoàn kết và tinh thần dân tộc, khát khao giành độc lập dân tộc của nhân dân ta sau hơn 80 năm dưới sự cai trị tàn bạo của chế độ thực dân Pháp. Cách mạng Tháng Tám nổ ra và giành thắng lợi do Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng suốt lựa chọn con đường giải phóng dân tộc một cách khoa học, đúng đắn, khắc phục triệt để hạn chế, sai lầm của những con đường cứu nước mà các nhà yêu nước trước đó đã tiến hành và khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Các cao trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945 thực sự là những “cuộc tổng diễn tập”, là tiền đề cho Cách mạng Tháng Tám thành công. Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát lệnh Tổng khởi nghĩagiành chính quyền trong cả nước đúng thời cơ, vào thời điểm thuận lợi nhất nên đã giành thắng lợi!

Về thành quả của Cách mạng Tháng Tám, chúng cho rằng “không có gì thay đổi chế độ xã hội ở Việt Nam, chẳng qua chỉ là thay từ chế độ “vua trị” sang chế độ “đảng trị”... Đây là sự xuyên tạc trắng trợn và phi lịch sử. Ngay về thuật học, chúng đã đánh tráo khái niệm. Ở nước ta, chế độ “vua trị”, hay nói cách khác là chế độ “quânchủ” bao giờ cũng đối lập hoàn toàn với chế độ “dân chủ”. Trong khi đó, cuộc Cách mạng Tháng Tám không những lật đổ sự thống trị của thực dân, phát xít, mà còn lật đổ hoàn toàn chế độ phong kiến “vua trị”.

Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ tôn chỉ, mục đích rõ ràng “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Mục tiêu của Cách mạng Tháng Tám “là giành lại hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ cho Tổ quốc ta, cho nhân dân ta”. Nghĩa là, đánh đổ đế quốc Pháp, Nhật và bọn phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc hoàn toàn, độc lập dân tộc thực sự để đi đến xây dựng một xã hội hoàn toàn ấm no, tự do, hạnh phúc-chế độ cộng sản chủ nghĩa. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bảnTuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa nhân dân ta từ kiếp nô lệ, bị bóc lột lên địa vị làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội. Đồng thời, đưa cách mạng Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới độc lập dân tộc vàCNXH. Thành quả ấy đã giải quyết được vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam - vấn đề chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đây là điều kiện tiên quyết để nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN)...

Giá trị lịch sử và thời đại vô cùng to lớn của Cách mạng Tháng Tám đó làgiá trị hòa bình chân chính. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không chỉ là thắng lợi của nhân dân Việt Nam mà còn là ngọn cờ đầu của các dân tộc, thuộc địa bị áp bức đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới.

Để kiên quyết đấu tranh, làm thất bại những thủ đoạn thâm độc ấy của các thế lực thù địch, hơn bao giờ hết, chúng ta phải tiếp tục khẳng định giá trị lịch sử và thời đại to lớn của Cách mạng Tháng Tám; phải nâng cao bản lĩnh chính trị vững vàng, tư tưởng luôn kiên định với con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Hiện nay, trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới, khu vực, mỗi quốc gia - dân tộc đều có những chiến lược, sách lược nhất định nhằm bảo đảm tối cao lợi ích quốc gia - dân tộc. Đảng ta chủ trương phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân làm động lực chủ yếu để phát triển đất nước; độc lập dân tộc vàCNXHlà mục tiêu tối thượng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN; phấn đấu “sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân...; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”là những mục tiêu, giải pháp căn bản, góp bảo vệ thành quả vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của dân tộc ta.

Ban Biên tập

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM VÀ TƯ TƯỞNG

HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả của sau 15 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, với cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh, cuộc vận động dân chủ 1936-1939 đến phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, theo Hồ Chủ Tịch, là “vì chính sách của Đảng đúng và thi hành chính sách ấy kịp thời và linh động”, “do sự lãnh đạo sáng suốt và kiên quyết của Đảng, do sức đoàn kết và hăng hái của toàn dân trong và ngoài Mặt trận Việt Minh”.

Viết về ý nghĩa của cuộc Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: “Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”. Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây dựng nền tảng nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. “Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử nước ta”.

Thành quả lớn nhất của Cách mạng Tháng Tám là xây dựng Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, với đặc trưng nổi bật: Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong bài “Chính phủ là công bộc của dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Các công việc của Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do, hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”.

Ngay sau khi giành được chính quyền, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng toàn dân xây dựng, củng cố chính quyền nhân dân. Về chính quyền nhân dân ở các địa phương, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Các Ủy ban nhân dân làng, phủ là hình thức Chính phủ địa phương phải chọn trong những người có công tâm, trung thành, sốt sắng với quyền lợi dân chúng, có năng lực làm việc, được đông đảo dân làng tín nhiệm. Không thể nhờ tiền tài hay một thế lực gì khác mà chui lọt vào các Ủy ban đó”.

Những ngày tháng sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh giành nhiều thời gian viết về xây dựng các Ủy ban nhân dân. Bài “Cách thức tổ chức các Ủy ban nhân dân, ngày 11-9-1945”. Người nhấn mạnh: “Ủy ban nhân dân làng trái với các hội đồng kỳ mục cũ thối nát, sẽ làm những việc có lợi cho dân, không phạm vào công lý, vào tự do của dân chúng. Nó hết sức tránh những cuộc bắt bớ đánh đập độc đoán, những cuộc tịch thu tài sản không đúng lý. Ủy ban nhân dân thận trọng hết sức trong chỗ chi dùng công quỹ, không dám tùy ý tiêu tiền vào những việc xa phí như ăn uống”. “Những nhân viên Ủy ban sẽ không lợi dụng danh nghĩa Ủy ban để gây bè tìm cánh, đưa người “trong nhà trong họ” vào làm việc với mình”. “Ủy ban nhân dân là Ủy ban có nhiệm vụ thực hiện tự do, dân chủ cho dân chúng. Nó phải hành động đúng tinh thần tự do, dân chủ đó”.

Chính quyền ở địa phương ở cơ sở đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi dân chủ trực tiếp với nhân dân. Trong bài “Sao cho được lòng dân?, ngày 12-10-1945”, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dẫu khó đến đâu cũng mặc lòng, những vấn đề quan hệ đến đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới. Phải chăm lo việc cứu tế nạn nhân cho chu đáo, phải chú ý trừ nạn mù chữ cho dân. Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được đặc biệt chú ý” “muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, phải đặt quyền lợi của dân lên trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”.

Trong “Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, ngày 17-10-1945”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ, thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối. Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Điều này cho thấy, bản chất cách mạng và dân chủ của chính quyền nhân dân, nguồn gốc sức mạnh của chính quyền là ở sự gắn bó với nhân dân, hết lòng, hết sức mưu cầu tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Hồ Chí Minh rất coi trọng việc phát huy dân chủ của người dân để lựa chọn ra người đại biểu vào cơ quan chính quyền nhà nước. Do đó, ngày 3-9-1945, phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người đã đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Theo Người, “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước nhà. Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng; tức là dân chủ, đoàn kết”. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt tôn giáo, dân tộc, giàu nghèo, dòng giống, v.v.. “Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của toàn dân”.

Để bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân được thực thi, Hồ Chí Minh yêu cầu phải quản lý đất nước, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”. Người nhấn mạnh “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Do đó, ngày 09-11-1946, Bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được thông qua tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I. Trong hoàn cảnh cách mạng nước nhà ngàn cân treo sợi tóc, “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”, việc thông qua Hiến pháp càng có ý nghĩa quan trọng về thực tiễn và pháp lý. Đây còn là thành quả to lớn của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hiến pháp là thành quả vẻ vang của cách mạng và được xây dựng trên các nguyên tắc:Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, trai gái, giai cấp, tôn giáo; Bảo đảm các quyền tự do dân chủ; Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.

Bản chất cách mạng và nhân dân, tính chất dân chủ và pháp quyền hòa quyện thống nhất với nhau thể hiện trong bản Hiến pháp 1946 “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam”. Có tới 11 điều của Hiến Pháp quy định về quyền lợi của công dân (từ điều 6 đến điều 16).Hiến pháp xác định mọi công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa. Công dân đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình (…). Người tàn tật, già cả được giúp đỡ. Trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng. Thực hiện chế độ phổ cập giáo dục bắt buộcv.v. Đó là những nội dung dân chủ mang tính cách mạng sâu sắc. Từ đó đến nay, những nội dung đó vẫn được tiếp tục được bổ sung, phát triển trong các bản Hiến pháp tiếp theo, đã và đang được thực hiện một cách sinh động trên đất nước ta.

Những quy định trong Hiến pháp thể hiện sâu sắc bản chất của Nhà nước kiểu mới của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước của dân và do dân nghĩa là nhân dân xây dựng, củng cố, bảo vệ chính quyền nhà nước. Nhà nước vì dân nghĩa là nhà nước mưu cầu quyền lợi, hạnh phúc cho nhân dân. “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”; “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Như vậy, vì dân không chỉ là mục tiêu hoạt động và tồn tại của chính quyền mà còn là phương thức, phong cách và phương pháp hành động của chính quyền.

Trong xây dựng Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Hồ Chí Minh rất chú trọng rèn luyện đội ngũ cán bộ chính quyền. Người nghiêm khắc phê phán những biểu hiện như: “ngang tàng, phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân”, đời sống nhân dân khốn khổ mà cán bộ “Ăn muốn cho ngon, mặc muốn cho đẹp, càng ngày càng xa xỉ, càng ngày càng lãng mạn, thử hỏi tiền bạc ấy ở đâu ra? Thậm chí lấy của công dùng vào việc tư, quên cả thanh liêm, đạo đức”. Thái độ đó làm mất lòng tin của nhân dân và uy tín của Chính phủ. Do đó, Người mong muốn mọi người sửa chữa để chính quyền ngày càng hoàn thiện và làm việc tốt hơn “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi, và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã phạm những lỗi lầm trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặt ra yêu cầu mọi cán bộ phải thường xuyên tự phê bình, tự giáo dục, tự chỉ trích để khắc phục khuyết điểm và cái hư hỏng trong mỗi người và trong bộ máy. Những khuyết điểm nhỏ của cán bộ thì làm cho dân chúng hoang mang, lớn thì ảnh hưởng đến khối đoàn kết toàn dân. Vì vậy, chúng ta phải lập tức sửa đổi ngay. Chúng ta không sợ có khuyết điểm mà chỉ sợ không có quyết tâm sửa đổi.

Sau Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta mong muốn và đã làm hết sức mình để xây dựng, củng cố vững chắc Nhà nước kiểu mới - Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 về phương diện xây dựng nhà nước kiểu mới mãi mãi là bài học lớn, là định hướng để xây dựng và không ngừng hoàn thiện Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu ra những quan điểm và biện pháp cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội chỉ rõ: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân” . Đó là sự tiếp tục phát triển thành quả của Cách mạng Tháng Tám và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân trong thời kỳ mới.

Ban Biên tập

HỘI NÔNG DÂN XÃ THIỆU VẬN LÀM THEO LỜI BÁC

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nông dân ta giàu thì nước ta giàu”. Thấm nhuần lời dạy đó của Bác, những năm qua, Hội Nông dân xã Thiệu Vận đã tuyên truyền, vận động các hội viên học và làm theo Bác, được đông đảo cán bộ, hội viên tích cực hưởng ứng bằng những việc làm thiết thực, góp phần không nhỏ vào công tác xây dựng đời sống văn hóa, phát triển kinh tế, xây dựng nông thôn mới ngày càng phát triển.

Thực hiện chủ trương, nghị quyết của Đảng ủy xã, Hội Nông dân xã đã phối hợp chặt chẽ, triển khai, quán triệt và ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các chi hội cơ sở tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Ban Thường vụ Hội đã thường xuyên hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các chi hội trong quá trình tổ chức thực hiện; coi trọng, có biện pháp khuyến khích, tạo điều kiện thúc đẩy phong trào thi đua nông dân sản xuất kinh doanh (SXKD) giỏi phát triển sâu rộng, thu hút đông đảo các hộ nông dân đăng ký, hưởng ứng tham gia. Hằng năm, Hội phối hợp với UBND xã phát động phong trào thi đua SXKD giỏi đến các hội viên nông dân, đã có 612 hộ đăng kí tham gia. Thông qua đánh giá kết quả phong trào, có 485 hộ đạt danh hiệu hộ sản xuất kinh doanh giỏi các cấp, đạt tỷ lệ 85% so với số hộ đăng ký. Song song với tổ chức thực hiện phong trào SXKD giỏi, Ban Chấp hành Hội Nông dân xã còn vận động cán bộ, hội viên làm mới và chỉnh trang nhà ở, huy động nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn. Kết quả trong năm qua, trên địa bàn xã, hội viên nông dân đã sửa chữa và làm mới được 96 nhà ở, tham gia 850 ngày công lao động và đóp góp làm đường giao thông nông thôn và giao thông nội đồng, hiến được 500m2làm đường giao thông nông thôn; vận động hội viên chú trọng đầu tư ba công trình sạch, như nhà tắm, nhà tiêu hợp vệ sinh và công trình nước sạch, kết quả đã làm được 750 nhà tắm, nhà tiêu hợp vệ sinh để góp phần xây dựng nông thôn mới nâng cao.

Hưởng ứng phong trào xây dựng xã Nông thôn mới nâng cao, Hội đã tích cực tuyên truyền, vận động hội viên tham gia công tác vệ sinh môi trường, đặc biệt là đảm nhận việc thu gom bao bì, chai lọ thuốc bảo vệ thực vật ở các xứ đồng, tập kết vào các thùng và vận chuyển về bãi rác thải theo quy định (toàn xã có 70 thùng); đã tạo được thói quen cho nhân dân sau mỗi khi phun thuốc trừ sâu cho lúa và hoa màu bỏ vỏ bao bì, chai lọ thuốc bảo vệ thực vật vào đúng nơi quy định. Hội luôn tuyên truyền về công tác vệ sinh môi trường, VSATTP đến cán bộ, hội viên và nhân dân, nhằm giúp bà con nông dân nhận thức rõ được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc sản xuất rau sạch và an toàn cho gia đình mình và cho người tiêu dùng. Hội đã thành lập tổ hợp tác "Chăn nuôi gà thịt thương phẩm trên nền đệm lót sinh học gắn với tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị" tại xã Thiệu Vận. Tổ hợp tác thành lập với 10 thành viên trên cơ sở tự nguyện liên kết trao đổi kinh nghiệm với nhau trong chăn nuôi, tạo điều kiện để thúc đẩy chăn nuôi phát triển, nâng cao thu nhập cho nông dân.

Hội luôn quán triệt sâu sắc đến từng cán bộ, hội viên đẩy mạnh cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư"; mỗi cán bộ, hội viên nông dân phải thực sự là cầu nối giữa Đảng với dân, gương mẫu chấp hành tốt các đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh bài trừ mê tín dị đoan, phòng chống ma túy và các tệ nạn xã hội ở khu dân cư; thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở. Chỉ đạo các chi hội làm tốt cam kết đến từng hội viên không vi phạm pháp luật, không tham gia cờ bạc và tệ nạn xã hội...

Bằng những việc làm cụ thể và thiết thực kể trên của Hội Nông dân xã Thiệu Vận, đã tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động đối với cán bộ, hội viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Năm 2021, Hội Nông dân xã đã vinh dự được Chủ tịch UBND huyện Thiệu Hóa tặng "Giấy khen" vì có thành tích nổi bật trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, giai đoạn 2016 - 2021. Năm 2021, được Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa tặng "Bằng khen" vì đã có thành tích xuất sắc trong thực hiện phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, giai đoạn 2015 - 2020.

Đỗ Thị Lan

CV Ban Tuyên giáo Huyện ủy

THÔNG TIN - TRAO ĐỔI KINH NGHIỆM

TỎI ĐEN SUZIN - NỖ LỰC XÂY DỰNG SẢN PHẨM OCOP

Nắm bắt được nhu cầu chăm sóc sức khoẻ từ các sản phẩm từ tự nhiên, chị Hoàng Thị Loan (Tiểu khu Ba Chè, thị trấn Thiệu Hóa) đã đầu tư mô hình sản xuất tỏi đen bằng công nghệ cao. Cung ứng ra thị trường những sản phẩm chất lượng, đảm bảo vệ sinh toàn thực phẩm.

Đối với người Việt Nam, từ lâu Tỏi đã trở thành một loại gia vị không thể thiếu trong căn bếp của mỗi gia đình, ngoài tác dụng tăng mùi vị của món ăn, tỏi còn có nhiều tác dụng trong phòng trị cảm cúm, tim mạch, hỗ trợ tăng cường miễn dịch, hỗ trợ ngăn ngừa ung thư…Tuy nhiên, mùi vị khó chịu của tỏi chính là rào cản khi sử dụng loại dược liệu này.

Tỏi đen vốn dĩ không có trong tự nhiên, nó là thành phẩm từ củ tỏi trắng trải qua quá trình lên men chậm trong điều kiện nhiệt độ, độ ẩm nghiêm ngặt những củ tỏi đen sẽ chuyển từ màu trắng sang màu đen và ăn rất ngọt, không còn vị cay nồng như tỏi trắng. Nắm bắt được nhu cầu về loại thực phẩm chức năng này chị Hoàng Thị Loan, ở Tiểu khu Ba Chè, thị trấn Thiệu Hóa đã mạnh dạn đầu tư phát triển mô hình sản xuất tỏi đen để cung cấp ra thị trường sản phẩm chất lượng cao.

Chị Loan cho biết: Cách đây 6 năm, qua lời giới thiệu của người thân về tác dụng của tỏi đen trong việc nâng cao sức khoẻ, tôi đã tìm mua cho mẹ dùng; sau thời gian sử dụng, mẹ tôi đã ổn định được đường huyết, giảm mỡ máu, các chỉ số về sức khỏe ổn định. Từ thực tế đó, tôi đã tìm hiểu thêm về công dụng, cách làm tỏi đen và được biết tại các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, người ta dùng tỏi đen rất phổ biến như một vị thuốc và thực phẩm chức năng với giá thành cao. Từ đó, tôi đã tìm hiểu về quy trình lên men tỏi trong nồi cơm điện ủ bằng bia từ 12 đến 15 ngày, hoặc máy làm tỏi công suất nhỏ để tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu của người dân địa phương. Tuy nhiên, tỏi đen ủ bằng bia có vị chua chứ không ngọt thanh như ủ bằng máy theo công nghệ Nhật Bản.

Năm 2019, tại một cơ sở dược liệu ở Hà Nội, chị Loan đã được mục sở thị quy trình sản xuất tỏi đen bằng các loại máy công suất lớn, có thể ủ từ 100 đến 300kg/1 lần ủ theo công nghệ Nhật Bản. Sau khi trở về, chị đã quyết tâm đầu tư 4 máy lên men và sấy dẻo với số vốn hơn 1 tỷ đồng và xây dựng chiến lược kinh doanh sản phẩm tỏi đen. Tỏi được chị Loan sử dụng để sản xuất tỏi đen là loại tỏi 1 nhánh được mua tại xã Hoằng Trinh, Hoằng Hóa. Tỏi được mua về phải trải qua nhiều công đoạn sàng lọc, chọn lựa, tránh những củ khô, mốc, sâu bệnh, sau đó rửa sạch, để khô. Toàn bộ các khay tỏi được đưa vào máy ủ lên men từ 30 - 35 ngày. Đó là thời gian đẩy mùi hăng và cay ra khỏi tỏi, những vi khuẩn có trong tỏi trắng cũng sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn. Kết thúc quá trình lên men, tỏi được đưa vào máy sấy từ 10 - 12 ngày”. Sau khoảng thời gian 45 ngày, những nhánh tỏi tươi màu trắng dần chuyển sang màu đen. Lúc này, mùi vị của tỏi đã thay đổi, tỏi đen mềm nhuận, có vị ngọt thanh, không có mùi hăng cay của tỏi tươi, mùi vị chua nhẹ giống như ô mai hoa quả. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, so với tỏi trắng thì tỏi được lên men có lượng hoạt chất tăng lên 16 lần và có nhiều công dụng tuyệt vời.

Tỏi đen Tăng cường sức đề kháng, hệ miễn dịch. Allicin có trong tỏi đen là một loại axit amin có khả năng tiêu diệt được nhiều loại virus, vi khuẩn. Hợp chất S-llylcysteine trong tỏi được lên men có khả năng ức chế một số dòng tế bào ung thư như: ung thư dạ dày, ung thư gan, ung thư đại tràng, trực tràng, ung thư vú,... Làm giảm mỡ áu, hạ cholesterol máu; thu dọn gốc tự do; chống oxy hóa; hỗ trợ điều trị các bệnh về tim mạch. Ăn tỏi đen thường xuyên và đúng cách cũng giúp bảo vệ tế bào gan hiệu quả. Tỏi đen được sử dụng cho nhiều đối tượng, người già, trẻ em. Người lớn mỗi ngày ăn 3 củ, trẻ em ăn 1- 2 củ… Tỏi đen có thể ăn trực tiếp hoặc ngâm rượu, ngâm mật ong.

Bà Trần Thị Trụ, Tiểu khu Ba Chè, thị trấn Thiệu Hóa cho biết, trước đây bà bị mất ngủ, huyết áp cao, tôi sử dụng tỏi đen được 1 năm nay và tôi thấy ngủ ngon hơn, huyết áp ổn định hơn. Ông Tạ Quốc Hương, xã Thiệu Công cho biết trước đây ông bị mỡ máu, tiểu đường, tôi sử dụng tỏi đen thường xuyên được 2 năm nay, nay kiểm tra thấy chỉ số đường huyết, mỡ máu đều ở ngưỡng cho phép. Ông duy trì ăn 3 củ tỏi đen mỗi ngày để phòng chống bệnh tật.

Tuy nhiên, đối với sản phẩm tỏi đen một số trường hợp được khuyên không nên sử dụng như: Phụ nữ mang thai; Những người có thể trạng nóng trong; Người mắc các bệnh về gan, thận, mắt không nên ăn quá nhiều; Người đang sử dụng thuốc chống đông máu hoặc có tiền sử dị ứng với tỏi thì không nên ăn; Người bị huyết áp thấp hoặc mắc bệnh tiêu chảy…

Hiện nay, sản phẩm tỏi đen SuZin của chị Loan đã được đăng ký mã vạch truy xuất nguồn gốc; mỗi tháng, chị sản xuất hơn 1 tấn tỏi tươi, cung cấp ra thị trường 5 đến 6 tạ sản phẩm tỏi đen. Đặc biệt là trong đợt dịch bệnh Covid -19 bùng phát, sản phẩm tỏi đen được nhiều gia đình lựa chọn để tăng sức đề kháng, phòng chống dịch. Sản phẩm tỏi đen SuZin của chị Loan đã được liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm với các siêu thị trên địa bàn các tỉnh Ninh Bình, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Đà Nẵng. Ngoài ra thị trường trong tỉnh được bày bán tại các của hàng tạp hóa, dược liệu và trên mạng xã hội face, zalo và các sàn giao dịch điện tử như shopee, lazada với mức giá 400.000đ/kg. Sản phẩm Tỏi đen đang hoàn thiện hồ sơ để được công nhận là sản phẩm OCOP cấp tỉnh.

Thanh Mai

Trung tâm Văn hóa, TT, TT và DL

NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HUYỆN THIỆU HÓA TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ LÃI SUẤT ĐỐI VỚI CÁC KHOẢN VAY

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 36/2022/NĐ-CP ngày 30/5/2022 về hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay tại Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), nguồn vốn cho vay, cấp bù lãi suất và phí quản lý để NHCSXH cho vay theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội.

Theo đó cùng ngày, Tổng Giám đốc NHCSXH đã ban hành văn bản số 4279/HD-NHCS về hướng dẫn thực hiện hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay tại NHCSXH theo Nghị định số 36/2022/NĐ-CP của Chính phủ.

Nghị định nêu rõ, khách hàng vay vốn được ngân sách Nhà nước hỗ trợ lãi suất khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau:

- Khách hàng vay vốn NHCSXH có các khoản vay có lãi suất trên 6%/năm và phát sinh giải ngân từ ngày 01/01/2022 đến ngày 31/12/2023 đáp ứng đầy đủ điều kiện được ngân sách nhà nước hỗ trợ lãi suất theo quy định và chưa hoàn thành việc tất toán khoản vay đến ngày 29/5/2022.

- Tổng nguồn vốn hỗ trợ lãi suất tối đa là 3.000 tỷ đồng.

- Mức hỗ trợ lãi suất cho khách hàng vay vốn là 2%/năm tính trên số dư nợ vay.

- Thời gian thực hiện hỗ trợ lãi suất từ ngày 01/01/2022 đến ngày 31/12/2023 hoặc khi NHCSXH thông báo kết thúc thực hiện hỗ trợ lãi suất theo Điểm g Khoản 2 Điều 10 Nghị định 36/NĐ-CP tùy theo thời điểm nào đến trước.

Nghị định nêu rõ, việc hỗ trợ lãi suất bảo đảm công khai, minh bạch, đúng đối tượng, đúng mục đích, tránh trục lợi chính sách. NHCSXH thực hiện hỗ trợ lãi suất đảm bảo đúng quy định, tạo thuận lợi cho khách hàng. Không thực hiện hỗ trợ lãi suất đối với dư nợ quá hạn hoặc được gia hạn nợ.

Về phương thức hỗ trợ lãi suất, định kỳ hằng tháng hoặc khi khách hàng vay vốn trả nợ, NHCSXH thực hiện tính số tiền hỗ trợ lãi suất của khoản vay và giảm trừ vào số tiền lãi phải trả của khách hàng vay vốn.

Đây là chính sách có ý nghĩa hết sức thiết thực và nhân văn của Đảng và Nhà nước, qua đó góp phần giúp khách hàng được tiếp cận vay vốn tín dụng chính sách xã hội, chung tay cùng khách hàng giảm bớt áp lực trong sản xuất kinh doanh, vượt qua giai đoạn khó khăn, phục hồi nền kinh tế sau đại dịch Covid-19.

Với tinh thần triển khai chính sách hỗ trợ lãi suất nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả, Phòng giao dịch NHCSXH huyện Thiệu Hóa xem đây là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu, tập trung tuyên truyền, niêm yết công khai chính sách đến các Điểm giao dịch xã, tuyên truyền chính sách đến toàn thể người dân trên địa bàn huyện. NHCSXH huyện Thiệu Hóa cũng đề nghị cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp tiếp tục quan tâm chỉ đạo hoạt động tín dụng chính sách xã hội nói chung, cũng như tuyên truyền hỗ trợ lãi suất từ NHCSXH, đảm bảo chính sách nhanh chóng đi vào cuộc sống.

Ngân hàng CSXH huyện Thiệu Hóa

LỊCHSỬ - VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT

NGUYÊN BÍ THƯ TỈNH ỦY THANH HÓA LÊ HUY TOÁN

Cụ Lê Huy Toán sinh năm 1890 tại làng Mao Xá, tổng Xuân Lai, phủ Thiệu Hóa (nay là thôn Toán Tỵ, xã Thiệu Toán, huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa).

Vốn sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, trọng văn sách, lễ nghĩa nên ngay từ nhỏ cụ Toán đã giác ngộ cách mạng, tham gia các phong trào thanh thiếu niên yêu nước ở địa phương. Chứng kiến dân tình chịu cảnh khổ cực, cụ quyết tâm nghiên cứu sách thuốc, học nghề chữa bệnh cứu người, đồng thời dạy chữ Hán cho con cháu trong làng. Cụ xông xáo tham gia các phong trào Thanh niên Cách mạng đồng chí hội, làm Bí thư Chi bộ Mao Xá, vận động quần chúng học chữ quốc ngữ; kiến nghị lên Viện dân biểu Trung Kỳ bãi bỏ dự án tăng thuế thân, thuế điều thổ; phong trào cải lương hương chính đưa người của cách mạng ứng cử vào các chức sắc của hội đồng ngũ hương làm tổng… Đến tháng 4/1940, cụ được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa kiêm Bí thư Chi bộ Mao Xá. “Cụ Toán chính là một trong những người hoạt động cách mạng đầu tiên của tỉnh Thanh Hóa, luôn luôn bám trụ cơ sở, cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân. Đây chính là điểm dân mến, dân tin ở cụ”, ông Lê Xuân Lối, nguyên Bí thư Đảng ủy xã Thiệu Toán kể lại. Sau khi được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, cụ và gia đình nằm trong tầm ngắm của địch. Đến tháng 9/1941, cụ bị địch bắt giam tại nhà tù Thanh Hóa và kết án 20 năm tù khổ sai cho đi đày biệt xứ tại Trường Xanh (nơi giam giữ những người đã thành án). Sau một thời gian ở tù bị tra tấn, ngày 05/4/1942, cụ hi sinh tại nhà tù Thanh Hóa, đúng vào thời điểm kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn ác liệt.

Để tưởng nhớ những người đã khuất, tháng 12/1954 chính quyền cách mạng bố trí lại đơn vị hành chính đã đổi phủ Thiệu Hóa thành huyện Thiệu Hóa, thành lập nên 12 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có xã Huy Toán mang tên ông, xã Huy Toán gồm 4 làng: Mao Xá, Hố Kỳ, Cựu Thôn và Thung Dung. Việc đặt tên xã Huy Toán có ý nghĩa lịch sử to lớn, tôn vinh những đóng góp lớn lao của liệt sỹ, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Lê Huy Toán đối với làng với xã nói riêng, xứ Thanh nói chung”, ông Lê Xuân Lối - nguyên Bí thư đảng ủy xã Thiệu Toán tự hào cho biết.

Ban Biên tập

TÔI YÊU ĐẤT NƯỚC TÔI

Tôi yêu Đất nước của tôi

Bao la đồng lúa, ngát đồi chè xanh
Từ nông thôn đến thị thành
Người dân đôn hậu, hiền lành mến yêu.

Tôi yêu những buổi chiều chiều
Vi vu tiếng sáo cánh diều bay cao
Tôi yêu từng cái bờ ao
Mùa hè tắm mát ta trao nụ cười.

Biển Đông xanh tận chân trời
Từng đoàn tàu cá ra khơi rộn ràng
Triều lên sóng biển mênh mang
Bình minh tàu đã đầy khoang cá ngừ.

Tôi yêu Đất nước vào thu
Bầu trời xanh thắm, lời ru ngọt ngào
Đêm rằm Tháng Tám rước sao
Bao nhiêu kỷ niệm tràn vào tuổi thơ.

Tôi yêu trái mận, trái mơ
Sầu riêng, măng cụt, trái bơ, trái xoài.
Tôi yêu cả dáng áo dài
Nghiêng nghiêng vành nón bóng ai đợi chờ!

Tôi yêu tiếng hát, lời thơ
Ngàn năm thương nhớ bao giờ cho nguôi!
Tôi yêu giọng nói tiếng cười
Và yêu Đất nước, con người Việt Nam.

Đức Trung
08-03.png

Từ khóa bài viết:
0 bình luận
(Bấm vào đây để nhận mã)

CÔNG KHAI TIẾN ĐỘ GIẢI QUYẾT TTHC

CHI TIẾT

Truyền Hình Thiệu Tóan